Người quân tử dáng vẻ đường hoàng, kẻ tiểu nhân mặt mày lấm lét. Nói lời phải giữ chữ tín, làm việc phải có hiệu quả. Người quân tử tìm lỗi ở bản thân, kẻ tiểu thân thường trách người khác….
Dường như, Đức Khổng Tử muốn nói với chúng ta rằng: Xem kìa, bầu trời trên đầu ta, luôn lặng lẽ và bao dung như thế. Trời đâu cần nói một lời, vậy mà bốn mùa cứ vần xoay mãi, tạo vật cũng cứ thế nảy nở sinh sôi. Chân lý không phải là sự áp đặt, cũng không phải là thứ kiến thức học thuật xa vời, mà chính là tiếng gọi từ sâu thẳm con tim, giục giã chúng ta hãy thuận theo đất, thuận theo trời, sống hài hoà giữa thiên địa mênh mang.
Vậy thì, chúng ta hãy trở lại với những lời tâm đắc của Khổng Tử từng được các nho sinh của ông ghi chép lại trong “Luận Ngữ” dưới đây. Người giản dị sẽ tìm thấy trong đó lời thiện hảo, người minh triết sẽ tìm thấy sự minh triết. Bởi vì, những lời dạy của Khổng Tử không phải là thứ giáo thuyết khô khan, mà chính là tiếng vọng của tâm hồn.
1. Ngô nhật tam tỉnh ngô thân: Vi nhân mưu nhi bất trung hồ? Dữ bằng hữu giao nhi bất tín hồ? Truyền bất tập hồ?
(吾日三省吾身:為人謀而不忠乎?與朋友交而不信乎?傳不習乎?)
Dịch văn: Hàng ngày ta nhiều lần phản tỉnh bản thân mình: Làm việc cho người khác có dốc hết sức mình không? Kết giao với bạn bè có giữ chữ Tín không? Thầy giáo truyền dạy tri thức có dụng tâm chăm chỉ ôn bài hay không?
2. Khổng viết: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục bất du củ”.
(子曰:“吾十有五而志於學,三十而立,四十而不惑,五十而知天命,六十而耳順,七十而從心所欲不逾矩。”)
Dịch văn: Khổng Tử nói: “15 tuổi ta lập chí học tập, 30 tuổi đã có thể tự lập. 40 tuổi đã có thể không bị mê hoặc bởi sự vật bên ngoài. 50 tuổi đã biết được mệnh trời, hiểu được những việc nào sức người không thể quyết định được. 60 tuổi có thể đối đãi chính xác với đủ kiểu dư luận, có thể phân biệt được đúng sai trong lời nói của người khác, không cảm thấy không thuận. 70 tuổi tâm có thể theo ý mình, có thể làm một cách tùy ý nhưng lại không vượt quá quy tắc”.
3. Thánh sự bất thuyết, toại sự bất gián, kí vãng bất cữu.
(成事不說,遂事不諫,既往不咎。)
Dịch văn: Những chuyện đã làm thì không giải thích, những chuyện đã thành thì không ngăn cấm, những chuyện đã qua thì không cần phải tiếp tục truy cứu.
4. Hủ mộc bất khả điêu dã, phẩn thổ chi tường bất khả hủ dã.
(朽木不可雕也,糞土之牆不可杇也。)
Dịch văn: Củi mục thì không thể dùng để điêu khắc, tường đắp bằng bùn đất thì không thể trát.
5. Cung tự hậu nhi bạc trách ư nhân, tắc viễn oán hỹ.
(躬自厚而薄責於人,則遠怨矣。)
Dịch văn: Yêu cầu nghiêm khắc với bản thân nhưng lại khoan dung với người khác, như vậy sẽ tránh được oán hận. Công việc thì tranh làm việc nặng, có sai sót thì chủ động gánh vác trách nhiệm, đây là “cung tự hậu”. Đối với người khác tha thứ nhiều hơn, khoan dung nhiều hơn, đây là “bạc trách vu nhân” (ít trách người).
6. Quân tử thành nhân chi mỹ bất thành nhân chi ác. Tiểu nhân phản thị.
(君子成人之美,不成人之惡。小人反是。)
Dịch văn: Người quân tử thường xuất phát từ sự lương thiện hoặc nguyện vọng có lợi cho người khác, mà toàn tâm toàn ý giúp người ấy thực hiện được ý nguyện tốt đẹp và nhu cầu chính đáng của bản thân. Họ không nhìn thế giới bằng ánh mắt tàn khốc hay chỉ e thiên hạ bất loạn. Họ cũng không đổ thêm dầu vào lửa khi người khác thất bại, sai sót, hay đau khổ. Kẻ tiểu nhân thì ngược lại, thường là “Thành nhân chi ác, bất thành nhân chi mỹ” (Tác thành với cái ác của người, không tác thành cho cái đẹp của người).
7. Kiến hiền tư tề yên, kiến bất hiền nhi nội tự tỉnh dã.
(見賢思齊焉,見不賢而內自省也。)
Dịch văn: Khi gặp được người có sở trường hay ưu điểm nổi trội ở một phương diện nào đó thì khiêm tốn thỉnh giáo họ, chăm chỉ học hỏi họ, nghĩ cách để theo kịp họ và muốn đạt tới cùng trình độ với họ. Khi gặp người có khuyết điểm hay thiếu sót nào đó thì phải bình tâm suy ngẫm lại xem mình có khuyết điểm hay những điều thiếu sót như họ không.
8. Đang nhân, bất nhượng ư sư.
(當仁,不讓於師。)
Dịch văn: Khi gặp việc tốt cần làm, không thể do dự không quyết, dẫu thầy giáo ở bên cạnh cũng cần tranh việc mà làm. Sau này phát triển thành câu: “Đang nhân bất nhượng” (Gặp việc tốt thì không nhường).
9. Ngôn ắt tín, hành ắt quả.
(言必信 ,行必果。)
Dịch văn: Lời đã nói ra nhất định phải giữ được chữ Tín. Việc xác định cần làm thì nhất định phải thực hiện một cách quyết đoán.
10. Quân tử thản đãng đãng, tiểu nhân trưởng thích thích.
(君子坦蕩蕩,小人長戚戚。)
Dịch văn: Tấm lòng người quân tử rộng rãi, tư tưởng luôn thản đãng, trong sạch. Diện mạo, cử chỉ cũng thể hiện được vẻ dễ chịu, đường hoàng, an nhiên. Kẻ tiểu nhân trong tâm dục niệm quá nhiều, áp lực đè nặng nên thường suy tư, lo lắng. Ngoại hình, cử chỉ cũng thể hiện sự thấp thỏm bất an.
11. Chất thẳng văn tắc dã, văn thắng chất tắc sử. Văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử.
(質勝文則野,文勝質則史。文質彬彬,然後君子。)
Dịch văn: Sự chân chất trong nội tâm của một người vượt qua vẻ ngoài nhã nhặn thì sẽ biểu hiện ra là sự vụng về. Vẻ ngoài nhã nhặn vượt qua sự chân chất thì khó tránh khỏi sự giả tạo, tâng bốc. Chỉ khi vẻ ngoài đẹp đẽ và sự chân chất kết hợp một cách phù hợp thì mới trở thành người quân tử.
12. Xảo ngôn lệnh sắc, tiên hỹ nhân!
(巧言令色,鮮矣仁!)
Dịch văn: Có những người luôn miệng nói những lời phỉnh nịnh người khác, sắc mặt lộ rõ thần thái ngụy thiện. Kiểu người này chẳng hề nhân đức chút nào.
13. Vô dục tốc, vô kiến tiểu lợi. Dục tốc tắc bất đạt; kiến tiểu lợi tắc đại sự bất thành.
(無欲速,無見小利。欲速則不達;見小利則大事不成。)
Dịch văn: Đừng cầu nhanh, đừng tham cái lợi nhỏ. Cầu nhanh ngược lại sẽ không đạt mục đích, tham cái lợi nhỏ thì đại sự chẳng thành.
14. Quần cư chung nhật, ngôn bất cập nghĩa, hảo hành tiểu huệ, nan dĩ tai!
(群居終日,言不及義,好行小慧,難矣哉!)
Dịch văn: Cả ngày chỉ tụ tập nói chuyện phiếm, không nói những lời nghiêm túc, lại thích giở trò khôn vặt thì rất khó có tương lai.
15. Quân tử thực vô cầu bão, cư vô cầu an, mẫn ư sự nhi thận ư ngôn, tựu hữu đạo nhi chính yên, khả vị hiếu học dã dĩ.
(君子食無求飽,居無求安,敏於事而慎於言,就有道而正焉,可謂好學也已。)
Dịch văn: Người quân tử ăn không cầu no, ở không cầu dễ chịu, làm việc nhanh nhạy nhưng nói năng lại cẩn trọng, tới chỗ người hiền đức để chỉnh đốn lại bản thân, có thể coi đây là người hiếu học.
16. Bần nhi vô oán, nan; Phú nhi vô kiêu, dịch.
(貧而無怨,難;富而無驕,易。)
Dịch văn: Bần cùng mà không oán hận, rất khó; Giàu có mà không cao ngạo, lại rất dễ.
17. Kiến thiện như bất cập, kiến thiện như thám thang.
(見善如不及,見不善如探湯。)
Dịch văn: Gặp được người tốt chỉ e không kịp học theo họ, gặp được việc tốt chỉ e chậm trễ làm không kịp. Thấy kẻ ác, việc xấu như chạm vào nước nóng sôi cuồn cuộn, phải lập tức buông tay, tránh đi thật xa.
18. Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân.
(君子求諸己,小人求諸人。)
Dịch văn: Người quân tử thường trách mình, tìm vấn đề và khuyết điểm từ bản thân. Kẻ tiểu nhân thường hướng ánh nhìn vào người khác, tìm khuyết điểm và thiếu sót của người khác.
19. Thủy ngô ư nhân dã, thính kỳ ngôn nhi tín kỳ hành; Kim ngô ư nhân dã, thính kỳ ngôn nhi quan kỳ hành.
(始吾於人也,聽其言而信其行;今吾於人也,聽其言而觀其行。)
Dịch văn: Trước kia đối với người, ta thường nghe người ấy nói và tin vào việc người ấy làm. Ngày nay khi đối đãi với người, ta không chỉ nghe họ nói mà còn phải quan sát việc họ làm.
20. Bất thiên nộ, bất nhị quá.
(不遷怒,不貳過。)
Dịch văn: “Bất thiên nộ” chính là khi bản thân có việc không như ý hay chuyện buồn phiền, nóng giận, thì không đổ vấy lên người khác. Dẫu tâm trạng của mình không tốt cũng không nên trút giận lên những người không liên quan. “Bất nhị quá” là biết sai thì sửa, không phạm cùng một sai lầm trong hai lần.
***
Những lời vàng ý ngọc của cổ nhân dẫu trải qua trăm năm nghìn năm vẫn còn nguyên giá trị trong việc tu thân, dưỡng tính của chúng ta. Trong kho tàng vô giá ấy dẫu chỉ học được đôi điều cũng đủ để chúng ta thọ ích cả đời.
Nhã Văn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét