Tu là để chinh phục được sanh tử, đạt đến cái vui tuyệt đối. Con đường mà Đức Phật đã chỉ dạy tường tận cho tất cả chúng ta, ai biết ứng dụng tu có kết quả nhất định mang ơn Phật, không bao giờ quên.
Hôm nay nhân ngày Đại lễ Phật đản cũng là ngày vui của Tăng Ni và Phật tử, tôi sẽ nhắc lại những đặc điểm nổi bật trong đời sống của Đức Phật. Mong rằng quý vị nghe hiểu và ứng dụng tu hành, xứng đáng người đệ tử đi theo con đường Phật đã đi, làm những việc Phật đã làm.
Nói về đời sống của Đức Phật, nếu kể đầy đủ theo dòng lịch sử thì quá dài không thể nói hết. Ở đây tôi chỉ nêu những điểm quan trọng từ khi Ngài phát tâm xuất gia đến lúc thành đạo và giáo hóa chúng sanh. Nương theo giáo lý chân thật Ngài để lại, chúng ta học tập và thực hành theo để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Khi Đức Phật còn là Thái tử Tất-đạt-đa, một hôm Ngài đi dạo bốn cửa thành, chứng kiến cảnh già bệnh chết của nhân sinh. Về đến hoàng cung, lòng Ngài nặng trĩu niềm ưu tư, trăn trở, bất an. Suốt đêm Ngài không ngủ được vì trằn trọc suy nghĩ. Tại sao con người sanh ra, lớn lên có gia đình, con cái và cuối cùng phải chịu già bệnh chết. Lần lượt lớp người đi trước, lớp người đi sau đều như vậy. Sanh già bệnh chết là một quy luật đương nhiên, mọi người phải chấp nhận, không ai chối cãi được. Nhưng riêng Thái tử không chấp nhận điều đó. Ngài cho rằng con người có quyền thoát khỏi quy luật này, vì thế Ngài quyết chí tìm lối đi để chinh phục sanh tử. Lẽ ưu tư đó khiến Thái tử không thể yên lòng tiếp tục sống trong hoàng cung. Mấy ngày liên tiếp Thái tử quên ăn bỏ ngủ, luôn luôn thao thức chí nguyện làm sao cứu mình và chúng sanh thoát khỏi luân hồi sanh tử. Cuối cùng Ngài quyết định từ giã vương cung, vào chốn rừng sâu tìm thầy học đạo.
Con người có mặt trên thế gian ai rồi cũng cảm nhận được thân phận của mình. Sanh ra, lớn lên rồi già chết. Ai cũng biết mình sẽ chết nhưng lại không thể an lòng khi cái chết đến. Hầu hết chúng ta đều chịu chết trong sự đau khổ, buồn tủi chứ không biết làm sao thoát khỏi cái chết. Nhìn thấy bà con quyến thuộc lần lượt ra đi, chúng ta xót xa thảm não. Nhưng chừng vài ba hôm lại vui vẻ chạy theo mọi nhu cầu của thế gian. Ít người chịu nhớ ngày mai mình sẽ chết lắm. Bởi vì họ cứ nghĩ mình sống lâu sống mãi. Do ham sống nên tới chừng sắp chết đau khổ không cùng. Nghe nói tới cái chết, người ta coi như một đại họa trong cuộc đời. Tuy nhiên, dù có tìm đủ mọi cách để trốn tránh cũng không sao tránh khỏi.
Khi Đức Phật cảm nhận rõ sự đau khổ của con người vì sanh tử, Ngài nhất quyết phải làm sao chinh phục được sanh tử. Trong quá trình tìm đạo và học đạo, trước hết Ngài gặp những vị tu tiên dạy về Tứ Thiền và Tứ Không sanh lên các cõi trời. Tất cả kết quả rốt ráo của các vị thầy chỉ dạy lại, Ngài đều chứng đạt hết, nhưng đối với Ngài những địa vị tu chứng này chưa phải cứu kính, chưa đúng mục tiêu Ngài nhắm tới vì còn trong sanh tử.
Cuối cùng Ngài từ giã tất cả vào rừng tu khổ hạnh. Ròng rã suốt sáu năm mà vẫn chưa đạt ý nguyện, Ngài chuyển sang lối tu trung đạo, đến dưới cội bồ-đề thiền định suốt bốn mươi chín ngày đêm. Đến đêm thứ bốn mươi chín khi sao Mai vừa mọc, tâm Ngài hoàn toàn thanh tịnh, liền chứng Tam minh Lục thông, ngang đó Ngài tuyên bố giải thoát sanh tử, thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
Sau khi thành đạo, Ngài biết rõ ràng đâu là khổ, đâu là nguyên nhân của khổ, đâu là hạnh phúc, phương pháp nào đạt được hạnh phúc chân thật miên viễn. Dứt hết mầm sanh tử và nguyên nhân dẫn đi trong sanh tử, tức là không còn sanh lại trong ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Ngang đó Ngài chinh phục được sanh tử. Tóm lại, khi Đức Phật tu chứng Túc mạng minh và Thiên nhãn minh đã giải quyết được thắc mắc buổi đầu. Tại sao con người có mặt ở đây và sau khi chết sẽ đi về đâu. Đến lúc chứng được Lậu tận minh, Ngài mới thực sự chinh phục được sanh tử, không còn bị sanh tử chi phối nữa.
Đạt đạo rồi, Đức Phật đem giáo lý giảng dạy cho chúng sanh. Hầu hết các vị đệ tử của Phật thời ấy đều chứng Thánh quả A-la-hán, hoàn toàn giải thoát sanh tử, không còn trở lại trong ba cõi, tức là cũng chinh phục được sanh tử.
Đức Phật chứng Thiên nhãn minh thấy rõ đời quá khứ của mỗi chúng sanh. Sanh ra trong gia đình nào, tạo nghiệp lành hay dữ, hiện tại như thế nào, sau khi chết sẽ ra sao. Ai có mặt ở đây đều mang vết tích của quá khứ và những gì gây tạo trong đời hiện tại sẽ tiếp tục được tiếp nối ở tương lai. Sự hiện diện của tất cả chúng ta ngày nay không phải chuyện ngẫu nhiên, cũng không do ai sắp đặt ngoài mình.
Con người là chủ tạo nghiệp rồi trở lại thừa kế nghiệp mình đã tạo. Một khi đã huân tập thành nghiệp, nó có sức mạnh chi phối, lôi kéo mình tiếp tục tạo nghiệp nữa. Trước làm chủ tạo nghiệp, sau bị nghiệp dẫn đi. Tự mình tập thành thói quen, làm chủ tạo nghiệp nên bị nghiệp chi phối. Vì không biết điều này nên lúc khổ người ta mới kêu trời kêu đất, than thân trách phận. Hiểu đạo rồi chúng ta mới thấy, ngày xưa si mê bây giờ phải chịu. Cười và trả quả thôi, đâu có gì buồn giận.
Mỗi năm đến ngày Phật đản, chúng ta vui mừng hướng về Đức Phật, thành kính đảnh lễ ân đức giáo hóa của Ngài. Vì lòng từ bi thương xót chúng sanh còn đang trầm nịch trong trầm luân sanh tử, Đức Phật dùng đủ mọi phương tiện để giáo hóa. Tùy tâm tánh và căn cơ của từng chúng sanh mà Phật có phương pháp chỉ dạy phù hợp. Làm sao cho chúng sanh thấy rõ manh mối của luân hồi và manh mối của giải thoát. Trọng tâm ý nghĩa những lời Phật dạy tựu trung trong ba điểm chánh.
Điểm thứ nhất, Phật dạy chúng ta sống trong cõi đời này đúng ý nghĩa là phải có lòng từ bi và trí tuệ. Mọi người biết thương yêu, giúp đỡ, bảo vệ, bênh vực nhau. Chỉ cho nhau thấy đâu là chánh tà, thiện ác, dở hay. Làm sao hướng dẫn mọi người đều được sáng suốt, thấy lẽ phải, chân lý một cách rõ ràng tường tận, khả dĩ đời sống hiện tại và tương lai mới tươi sáng hơn.
Điểm thứ hai, Đức Phật dạy sanh tử không phải chỉ một đời này. Sau khi mạng chung còn tiếp tục luân hồi nhiều đời nữa. Muốn đời sau được vui vẻ tốt đẹp, Phật dạy chúng ta chọn lấy một lối đi cho mình. Muốn trở lại làm người tốt, phải quy y Tam bảo và giữ tròn năm giới cấm. Năm giới đó là không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu say sưa. Đó là nhân tố xứng đáng làm người tốt trong hiện tại và tương lai. Tiến cao hơn một bước nữa, Phật dạy muốn sanh lên cõi trời phải giữ tròn mười điều lành, tức là tu pháp Thập thiện. Người nào tạo mười điều ác nhất định rơi vào địa ngục, tham lam bỏn sẻn sanh vào loài ngạ quỷ, si mê cố chấp đọa làm súc sanh. Đó là ba đường xấu.
Điểm thứ ba là chinh phục được sanh tử, bằng cách tu các pháp như Tứ đế, Mười hai nhân duyên, Lục độ vạn hạnh, hoặc dùng trí tuệ nhận ra bản tâm, sống với bản tâm bất sanh bất diệt của mình. Đối với những người biết tu, ân nghĩa của Phật nhiều vô kể. Trong kinh thường tán thán Đức Phật là bậc Vô thượng Y vương. Vô thượng là không có gì hơn, y là thầy thuốc, vương là vua. Nghĩa là ông vua thầy thuốc không ai bằng. Phật chỉ dạy chúng ta phương thuốc chinh phục sanh tử. Nghĩa là không còn sanh không còn tử nữa, miên viễn không bao giờ luân hồi. Cho nên Phật xứng đáng được tôn xưng là ông vua thầy thuốc.
Trên thế gian, chết là nỗi sợ lớn nhất của con người. Nhiều người nói tôi không sợ chết, chỉ sợ đau. Nhưng kiểm lại không đau có chết được không? Như vậy sợ đau là sợ cái nhân, sợ chết là sợ cái quả. Tất cả chúng ta khổ vì sợ chết. Sợ đói, đói rồi cũng chết. Sợ đau, đau rồi cũng chết. Mọi cái sợ đều vì cái chết mà ra. Ngày nay học đạo chúng ta biết rõ ngay trong thân sống chết này có cái không sống chết. Nhận được cái đó tức là làm chủ sống chết. Cho nên sau khi đạt đạo, ngài Từ Minh nói rằng: “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ”. Ta có mặt trên cõi đời như mùa đông đắp chăn ấm áp, chết như cởi bỏ chiếc áo trong mùa hè nóng bức. Sanh vui, tử cũng vui.
Tu là để chinh phục được sanh tử, đạt đến cái vui tuyệt đối. Con đường mà Đức Phật đã chỉ dạy tường tận cho tất cả chúng ta, ai biết ứng dụng tu có kết quả nhất định mang ơn Phật, không bao giờ quên. Trong ngày Phật đản, tôi nhắc lại những điểm quan trọng này để quý vị đồng nhớ và cảm trọng ân sâu của Đức Phật. Mong rằng tất cả quý Phật tử nghe hiểu rồi ứng dụng tu, làm sao thoát khỏi cái khổ sanh tử và chinh phục được sanh tử, cứu giúp muôn loài, mới có thể đền ân to lớn của Đức Phật.
Nói về đời sống của Đức Phật, nếu kể đầy đủ theo dòng lịch sử thì quá dài không thể nói hết. Ở đây tôi chỉ nêu những điểm quan trọng từ khi Ngài phát tâm xuất gia đến lúc thành đạo và giáo hóa chúng sanh. Nương theo giáo lý chân thật Ngài để lại, chúng ta học tập và thực hành theo để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Khi Đức Phật còn là Thái tử Tất-đạt-đa, một hôm Ngài đi dạo bốn cửa thành, chứng kiến cảnh già bệnh chết của nhân sinh. Về đến hoàng cung, lòng Ngài nặng trĩu niềm ưu tư, trăn trở, bất an. Suốt đêm Ngài không ngủ được vì trằn trọc suy nghĩ. Tại sao con người sanh ra, lớn lên có gia đình, con cái và cuối cùng phải chịu già bệnh chết. Lần lượt lớp người đi trước, lớp người đi sau đều như vậy. Sanh già bệnh chết là một quy luật đương nhiên, mọi người phải chấp nhận, không ai chối cãi được. Nhưng riêng Thái tử không chấp nhận điều đó. Ngài cho rằng con người có quyền thoát khỏi quy luật này, vì thế Ngài quyết chí tìm lối đi để chinh phục sanh tử. Lẽ ưu tư đó khiến Thái tử không thể yên lòng tiếp tục sống trong hoàng cung. Mấy ngày liên tiếp Thái tử quên ăn bỏ ngủ, luôn luôn thao thức chí nguyện làm sao cứu mình và chúng sanh thoát khỏi luân hồi sanh tử. Cuối cùng Ngài quyết định từ giã vương cung, vào chốn rừng sâu tìm thầy học đạo.
Con người có mặt trên thế gian ai rồi cũng cảm nhận được thân phận của mình. Sanh ra, lớn lên rồi già chết. Ai cũng biết mình sẽ chết nhưng lại không thể an lòng khi cái chết đến. Hầu hết chúng ta đều chịu chết trong sự đau khổ, buồn tủi chứ không biết làm sao thoát khỏi cái chết. Nhìn thấy bà con quyến thuộc lần lượt ra đi, chúng ta xót xa thảm não. Nhưng chừng vài ba hôm lại vui vẻ chạy theo mọi nhu cầu của thế gian. Ít người chịu nhớ ngày mai mình sẽ chết lắm. Bởi vì họ cứ nghĩ mình sống lâu sống mãi. Do ham sống nên tới chừng sắp chết đau khổ không cùng. Nghe nói tới cái chết, người ta coi như một đại họa trong cuộc đời. Tuy nhiên, dù có tìm đủ mọi cách để trốn tránh cũng không sao tránh khỏi.
Khi Đức Phật cảm nhận rõ sự đau khổ của con người vì sanh tử, Ngài nhất quyết phải làm sao chinh phục được sanh tử. Trong quá trình tìm đạo và học đạo, trước hết Ngài gặp những vị tu tiên dạy về Tứ Thiền và Tứ Không sanh lên các cõi trời. Tất cả kết quả rốt ráo của các vị thầy chỉ dạy lại, Ngài đều chứng đạt hết, nhưng đối với Ngài những địa vị tu chứng này chưa phải cứu kính, chưa đúng mục tiêu Ngài nhắm tới vì còn trong sanh tử.
Cuối cùng Ngài từ giã tất cả vào rừng tu khổ hạnh. Ròng rã suốt sáu năm mà vẫn chưa đạt ý nguyện, Ngài chuyển sang lối tu trung đạo, đến dưới cội bồ-đề thiền định suốt bốn mươi chín ngày đêm. Đến đêm thứ bốn mươi chín khi sao Mai vừa mọc, tâm Ngài hoàn toàn thanh tịnh, liền chứng Tam minh Lục thông, ngang đó Ngài tuyên bố giải thoát sanh tử, thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
Sau khi thành đạo, Ngài biết rõ ràng đâu là khổ, đâu là nguyên nhân của khổ, đâu là hạnh phúc, phương pháp nào đạt được hạnh phúc chân thật miên viễn. Dứt hết mầm sanh tử và nguyên nhân dẫn đi trong sanh tử, tức là không còn sanh lại trong ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Ngang đó Ngài chinh phục được sanh tử. Tóm lại, khi Đức Phật tu chứng Túc mạng minh và Thiên nhãn minh đã giải quyết được thắc mắc buổi đầu. Tại sao con người có mặt ở đây và sau khi chết sẽ đi về đâu. Đến lúc chứng được Lậu tận minh, Ngài mới thực sự chinh phục được sanh tử, không còn bị sanh tử chi phối nữa.
Đạt đạo rồi, Đức Phật đem giáo lý giảng dạy cho chúng sanh. Hầu hết các vị đệ tử của Phật thời ấy đều chứng Thánh quả A-la-hán, hoàn toàn giải thoát sanh tử, không còn trở lại trong ba cõi, tức là cũng chinh phục được sanh tử.
Đức Phật chứng Thiên nhãn minh thấy rõ đời quá khứ của mỗi chúng sanh. Sanh ra trong gia đình nào, tạo nghiệp lành hay dữ, hiện tại như thế nào, sau khi chết sẽ ra sao. Ai có mặt ở đây đều mang vết tích của quá khứ và những gì gây tạo trong đời hiện tại sẽ tiếp tục được tiếp nối ở tương lai. Sự hiện diện của tất cả chúng ta ngày nay không phải chuyện ngẫu nhiên, cũng không do ai sắp đặt ngoài mình.
Con người là chủ tạo nghiệp rồi trở lại thừa kế nghiệp mình đã tạo. Một khi đã huân tập thành nghiệp, nó có sức mạnh chi phối, lôi kéo mình tiếp tục tạo nghiệp nữa. Trước làm chủ tạo nghiệp, sau bị nghiệp dẫn đi. Tự mình tập thành thói quen, làm chủ tạo nghiệp nên bị nghiệp chi phối. Vì không biết điều này nên lúc khổ người ta mới kêu trời kêu đất, than thân trách phận. Hiểu đạo rồi chúng ta mới thấy, ngày xưa si mê bây giờ phải chịu. Cười và trả quả thôi, đâu có gì buồn giận.
Mỗi năm đến ngày Phật đản, chúng ta vui mừng hướng về Đức Phật, thành kính đảnh lễ ân đức giáo hóa của Ngài. Vì lòng từ bi thương xót chúng sanh còn đang trầm nịch trong trầm luân sanh tử, Đức Phật dùng đủ mọi phương tiện để giáo hóa. Tùy tâm tánh và căn cơ của từng chúng sanh mà Phật có phương pháp chỉ dạy phù hợp. Làm sao cho chúng sanh thấy rõ manh mối của luân hồi và manh mối của giải thoát. Trọng tâm ý nghĩa những lời Phật dạy tựu trung trong ba điểm chánh.
Điểm thứ nhất, Phật dạy chúng ta sống trong cõi đời này đúng ý nghĩa là phải có lòng từ bi và trí tuệ. Mọi người biết thương yêu, giúp đỡ, bảo vệ, bênh vực nhau. Chỉ cho nhau thấy đâu là chánh tà, thiện ác, dở hay. Làm sao hướng dẫn mọi người đều được sáng suốt, thấy lẽ phải, chân lý một cách rõ ràng tường tận, khả dĩ đời sống hiện tại và tương lai mới tươi sáng hơn.
Điểm thứ hai, Đức Phật dạy sanh tử không phải chỉ một đời này. Sau khi mạng chung còn tiếp tục luân hồi nhiều đời nữa. Muốn đời sau được vui vẻ tốt đẹp, Phật dạy chúng ta chọn lấy một lối đi cho mình. Muốn trở lại làm người tốt, phải quy y Tam bảo và giữ tròn năm giới cấm. Năm giới đó là không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu say sưa. Đó là nhân tố xứng đáng làm người tốt trong hiện tại và tương lai. Tiến cao hơn một bước nữa, Phật dạy muốn sanh lên cõi trời phải giữ tròn mười điều lành, tức là tu pháp Thập thiện. Người nào tạo mười điều ác nhất định rơi vào địa ngục, tham lam bỏn sẻn sanh vào loài ngạ quỷ, si mê cố chấp đọa làm súc sanh. Đó là ba đường xấu.
Điểm thứ ba là chinh phục được sanh tử, bằng cách tu các pháp như Tứ đế, Mười hai nhân duyên, Lục độ vạn hạnh, hoặc dùng trí tuệ nhận ra bản tâm, sống với bản tâm bất sanh bất diệt của mình. Đối với những người biết tu, ân nghĩa của Phật nhiều vô kể. Trong kinh thường tán thán Đức Phật là bậc Vô thượng Y vương. Vô thượng là không có gì hơn, y là thầy thuốc, vương là vua. Nghĩa là ông vua thầy thuốc không ai bằng. Phật chỉ dạy chúng ta phương thuốc chinh phục sanh tử. Nghĩa là không còn sanh không còn tử nữa, miên viễn không bao giờ luân hồi. Cho nên Phật xứng đáng được tôn xưng là ông vua thầy thuốc.
Trên thế gian, chết là nỗi sợ lớn nhất của con người. Nhiều người nói tôi không sợ chết, chỉ sợ đau. Nhưng kiểm lại không đau có chết được không? Như vậy sợ đau là sợ cái nhân, sợ chết là sợ cái quả. Tất cả chúng ta khổ vì sợ chết. Sợ đói, đói rồi cũng chết. Sợ đau, đau rồi cũng chết. Mọi cái sợ đều vì cái chết mà ra. Ngày nay học đạo chúng ta biết rõ ngay trong thân sống chết này có cái không sống chết. Nhận được cái đó tức là làm chủ sống chết. Cho nên sau khi đạt đạo, ngài Từ Minh nói rằng: “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ”. Ta có mặt trên cõi đời như mùa đông đắp chăn ấm áp, chết như cởi bỏ chiếc áo trong mùa hè nóng bức. Sanh vui, tử cũng vui.
Tu là để chinh phục được sanh tử, đạt đến cái vui tuyệt đối. Con đường mà Đức Phật đã chỉ dạy tường tận cho tất cả chúng ta, ai biết ứng dụng tu có kết quả nhất định mang ơn Phật, không bao giờ quên. Trong ngày Phật đản, tôi nhắc lại những điểm quan trọng này để quý vị đồng nhớ và cảm trọng ân sâu của Đức Phật. Mong rằng tất cả quý Phật tử nghe hiểu rồi ứng dụng tu, làm sao thoát khỏi cái khổ sanh tử và chinh phục được sanh tử, cứu giúp muôn loài, mới có thể đền ân to lớn của Đức Phật.
Bài viết: "Trưởng lão HT.Thích Thanh Từ nói Ân đức Phật-đà"
Nguồn: Giacngo.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét