TẠI GIA BỒ TÁT - Chùa Vinh Phúc

Hoằng Dương Chánh Pháp - Trưởng Dưỡng Đạo Tâm - Phụng Sự Nhân Sinh - Hành Bồ Tát Đạo

test banner

Post Top Ad

test banner

Thứ Năm, 1 tháng 11, 2018

TẠI GIA BỒ TÁT

Trong Phẩm Đức Tuân Phổ Hiền, kinh nói đến muôn hạnh đức của Phổ Hiền Bồ-tát, cũng như là của các vị Chánh sĩ tuân tu theo đức hạnh của Phổ Hiền Đại sĩ, cốt hầu làm mô phạm cho chúng ta theo đó mà học tập để vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, chứng nhập chân lý giải thoát giác ngộ, đạt tới cảnh giới vô sanh vô diệt, cứu cánh Phật quả. 

Kinh chép: “Lại còn có Ngài Hiền Hộ vân vân ... mười sáu Chánh sĩ, đó là: Bồ-tát Thiện Tư Duy, Bồ-tát Huệ Biện Tài, Bồ-tát Quán vô Trụ, Bồ-tát Thần Thông Hoa, Bồ-tát Quang Anh, Bồ-tát Bảo Tràng, Bồ-tát Trí Thượng, Bồ-tát Tịch Căn, Bồ-tát Tín Huệ, Bồ-tát Nguyện Huệ, Bồ-tát Hương Tượng, Bồ-tát Bảo Anh, Bồ-tát Trung Trụ, Bồ-tát Chế Hạnh, Bồ-tát Giải Thoát, đều là thượng thủ.”

“Chánh sĩ” là danh xưng khác của Bồ-tát tại gia. “Chánh” nghĩa là chánh đạo, chánh tri, chánh kiến. “Sĩ” nghĩa là sĩ phu hay cư sĩ, là danh xưng của người tại gia trí thức. Các vị Đại sĩ này bên ngoài thì thị hiện hình tướng phàm phu, sống tại gia, không xuất gia, nhưng bên trong họ thâm đạt chánh đạo đến mức thâm sâu, nên gọi là Chánh sĩ hay tại gia Bồ-tát. Mười sáu Chánh sĩ kể trên đều là thượng thủ của vô lượng vô biên tại gia Bồ-tát cùng lúc đến dự hội. Bồ-tát Phổ Hiền và Văn Thù là thượng thủ ở địa vị cao tột nhất trong pháp hội Vô Lượng Thọ của Phật Thích Ca Mâu Ni, nên tên của hai vị Đại sĩ này được nêu ra trước tiên để tổng nhiếp hết thảy các vị tại gia Bồ-tát tuân tu theo đức hạnh của Ngài Phổ Hiền. Kế tiếp, Di Lặc là thượng thủ của các vị Bồ-tát đã được Phật thọ ký tương lai thành Phật trong Hiền Kiếp. Hết thảy các vị Bồ-tát này đều nhận lãnh giáo lệnh của Phật dạo khắp mười phương, hành quyền phương tiện để giáo hóa, cứu độ chúng sanh. Các Đại Bồ-tát này đều đạt được Kim Cang tam muội, có chánh định rất vững chắc ví như kim cương; cho nên trên thì các Ngài đồng một từ lực với chư Phật, thương yêu tất cả mọi chúng sanh bình đẳng, không phân biệt. Dưới thì các Ngài khế hợp và đồng một bi ngưỡng với tất cả mười phương lục đạo chúng sanh. Chư Bồ-tát không phải là chỉ thương người thiện lánh xa người ác, thương người nghèo khó bỏ rơi kẻ giàu sang; dưới tuệ giác của các Ngài tất cả chúng sanh đều bình đẳng như nhau, không hề có chút sai khác, hễ chúng sanh nào có duyên với các Ngài, thảy đều được độ. Vậy, ai mới là những người có duyên với chư Phật, Bồ-tát? kinh này nói, những người ngày đêm không ngừng thọ trì, quán chiếu tư duy kinh Vô Lượng Thọ, nhớ Phật niệm Phật cầu sanh Cực Lạc; do những công đức ấy mà họ tiếp nhận được sự hộ niệm của Phật, Bồ-tát, tức là họ tiếp nhận được Vô tác Diệu lực của các Ngài. Bồ-tát ứng hóa tùy theo tâm cảm của chúng sanh mà hiện thân tướng, các Ngài không chỉ hiện thân tướng loài người, mà còn hiện các tướng khác như là núi, sông, đại địa, cây cối, hoa, cỏ v.v.... |Các Ngài giống như các nhà ảo sư giỏi thường hiện các tướng lạ, hễ tướng nào có thể giác ngộ chúng sanh thì chư Bồ-tát bèn hiện ra tướng ấy. Bất cứ thân nào thích ứng với tâm tánh của một cá nhân nào; có thể là núi, sông, cây cối, hoa lá, cỏ dại v.v.... thì Ngài liền hiện cảnh đó, khiến người ấy do thấy cảnh tướng đó mà bổng nhiên giác ngộ, quay trở về với Chân tâm vốn sẵn thanh tịnh của mình. Vì vậy, chúng ta nghe qua những câu chuyện xưa trong Thiền tông, có những vị Thiền sư do thấy cây cối, hoa lá, mưa rơi v.v... mà thoát nhiên khai ngộ. Những cảnh vật ấy chính là ứng thân của Phật, Bồ-tát thị hiện để khai mở tuệ giác cho chúng sanh, giúp chúng sanh tìm thấy Chân tâm Tự tánh vốn sẵn thanh tịnh của mình.

Tóm lại, hết thảy các thứ vô tình, hữu tình hay hiện tượng nào có tác dụng khai mở tuệ giác làm cho chúng sanh giác ngộ, dù trực tiếp hay gián tiếp, dù thiện cảnh hay ác cảnh, đều là ứng hóa thân của chư Phật, Bồ-tát, chẳng có chuyện nào mà chẳng là do Phật lực gia trì, mà Phật lực gia trì lại chính là tác dụng của Tự tánh. Vì thế, đối với Phật, dẫu Phật hiện thân Phật đến gia trì, chúng ta cũng chẳng nên sanh tâm hoan hỷ, chẳng nên bị kích động, khi tâm mình bị kích động là hỏng rồi! Vì sao? Vì A Di Đà Phật là Tự tánh thanh tịnh của chính mình biến hiện ra, chẳng phải là từ ở bên ngoài vào thì có gì lạ đâu mà phải khởi tâm động niệm? Thế giới Cực Lạc là Duy tâm Tịnh độ thì chỗ nào là bên ngoài? A Di Đà Phật hiện ra trong tâm mình hoàn toàn là do tánh đức của chính mình lưu lộ ra, chớ đâu có gì khác nhau. Nếu chúng ta hiểu rõ đạo lý này thì vĩnh viễn sẽ được tâm bình, khí hòa, vĩnh viễn là như như bất động đúng như lời mà Lục Tổ Huệ Năng đã nói: “Nào ngờ Tự tánh vốn chẳng lay động.” Tâm không bị lay động bởi trần cảnh, chẳng để cho tâm mình dấy lên một chút sóng mòi nào trong tất cả cảnh giới thì vĩnh viễn giữ được “Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác.” Vì thế, Tổ Hoàng Bá mới nói: “Tức tâm là Phật. Tâm đó là vô tâm.”

Khi chúng ta niệm Phật mà biết xoay cái tánh nghe vào để lắng nghe tiếng nói rỗng lặng, thanh tịnh của tâm mình, thì diệu âm thanh tịnh ấy chính là hiện thân của A Di Đà Phật. Vậy, niệm A Di Đà Phật là niệm cái tâm thanh tịnh rỗng lặng của chính mình để thanh lọc, bỏ đi những ý niệm bất thiện và thực hành duy nhất một niệm thiện; đó là một niệm Di Đà. Cho nên, tuy nói chư Phật, Bồ-tát hóa hiện ứng thân, nhưng thật ra các Ngài chẳng hề có tác ý, chẳng hề khởi tâm động niệm, các Ngài chỉ dùng lực vô tác nhiệm mầu “không làm, không độ mà lại độ tất cả” để ứng hiện trong tâm cảm của mỗi chúng sanh, khiến chúng sanh thoát nhiên đại ngộ. Vô tác (không tác ý) chính là Bát-nhã vô tri, cũng nghĩa là trí huệ Vô tướng. Phật, Bồ-tát không tác ý, chúng sanh cũng không tác ý; thì hai tâm ấy trở thành một thể “Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác,” đúng như bài kệ tán Phật có viết: “Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng, đạo cảm thông không thể nghĩ bàn.”

Trong Mật Tông, con số mười sáu được dùng để biểu thị công đức viên mãn vô tận của chư đại Bồ-tát. Dù cho số lượng của các công đức nhiều như số cát trong sông Hằng, hoặc nhiều như số bụi trong biển cả, kinh cũng chỉ nêu mười sáu đức hiệu tiêu biểu này mà thôi. Vì thế, kinh dùng mười sáu danh hiệu để khen ngợi Thật Đức và Quyền Đức của các Chánh sĩ và cũng để biểu thị sự viên mãn vô tận của kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ.

1. Hiền Hộ Bồ-tát đại biểu cho hàng chuyên tu Tịnh độ đã tự mình có thể gìn giữ mọi tư tưởng, hành vi thuần chánh, hiền đức, lại còn có khả năng hộ trì chúng sanh, gìn giữ ý tứ, trung tín, hiếu hiền. Do vì các vị Chánh sĩ này đều là tại gia Bồ-tát ở địa vị Ðẳng giác, giống như địa vị của Phổ Hiền và Văn Thù, đều có đầy đủ học vấn và đạo đức để làm thượng thủ của các bậc hiền thánh, nên kinh gọi họ là Hiền Hộ, Hiền Thủ hay Thiện Thủ. Các Ngài đến trong pháp hội thù thắng đây để hỗ trợ đức Thế Tôn hiển bày pháp môn Niệm Phật, kinh Vô Lượng Thọ. Hiền Hộ còn ngụ ý là: Như Lai khéo hộ niệm các Bồ-tát. Nhất thừa Nguyện Hải, sáu chữ hồng danh, độ khắp ba căn, thâu trọn vạn loại. Vậy thì, chẳng những các vị Hiền Hộ đến để hỗ trợ kinh Vô Lượng Thọ, mà còn đến để tiếp nhận sự giáo dục của đức Thế Tôn.

2. Thiện Tư Duy Bồ-tát đại biểu cho hàng chuyên tu Tịnh độ có đầy đủ kiến giải, tư tưởng chánh xác, có tâm thuần tịnh, tin sâu Phật huệ, chánh trí minh liễu tương ưng với Phật A Di Đà lúc còn tu nhân. Pháp Tạng Tỳ Kheo, tức tiền thân của A Di Đà Phật lúc còn tu nhân, trong năm kiếp trụ trong chánh định tư duy rốt ráo các chỗ thô, chỗ diệu của vô lượng cõi nước Phật trong thập phương, rồi lấy tâm nguyện thiện lành ấy kết thành Bốn Mươi Tám Đại Nguyện thù thắng, nhằm mục đích cứu độ chúng sanh thoát ly tam giới, vĩnh viễn không còn sanh, lão, bệnh tử, khổ đau nữa, nên kinh này ghi: “Ðối các chư thiên, con người thiện ác, cõi nước thô diệu, tư duy rốt ráo, liền được Nhất Tâm, chọn các điều muốn, kết thành nguyện lớn. Siêng năng cầu tiến, cung kính thận trọng, hết lòng gìn giữ, tu tập công đức, đầy đủ năm kiếp.” Do ý nghĩa kể trên, Thiện Tư Duy hiển thị: kinh Vô Lượng Thọ lấy “phát Bồ-đề tâm” làm gốc, làm cương lãnh cho người tu Bồ-tát đạo.

3. Huệ Biện Tài Bồ-tát đại biểu cho hàng chuyên tu Tịnh độ có trí huệ, tin sâu Phật trí, biện tài nói pháp vô ngại, có khả năng đem giáo lý của Tịnh tông diễn nói, khiến cho người khác hiểu rõ tường tận, phá trừ nghi hoặc, phát sanh chân tín, nên kinh ghi: “Diễn nói đại từ, trao truyền mắt pháp,” “thường dùng pháp âm giác ngộ thế gian.”

4. Quán Vô Trụ Bồ-tát đại biểu cho hàng chuyên tu Tịnh độ có khả năng quán sát tất cả các pháp của thế gian đều là vô thường, vô ngã, nên họ niệm Phật với cái tâm không chấp trước, không lưu luyến, không mong cầu, cũng không tưởng cầu mới có thể vãng sanh. Vì thế, Quán Vô Trụ biểu thị kinh này nói pháp môn Không, Vô tướng, Vô nguyện. Ngài Pháp Tạng tỳ kheo, tức tiền thân của A Di Đà Phật, đã trải qua bao kiếp tu nhân hạnh, cũng là vì muốn cứu độ hữu tình mà tuyên nói pháp môn Không, Vô tướng, Vô nguyện. Các Chánh sĩ trong pháp hội Vô Lượng Thọ cũng vậy, họ cũng chỉ nói pháp môn “Không, Vô tướng, Vô nguyện,” nên kinh ghi: “Siêu vượt Thanh Văn và Bích Chi Phật, nhập pháp môn Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, khéo bày phương tiện, hiển rõ ba Thừa.”

5. Thần Thông Hoa Bồ-tát đại biểu cho hàng chuyên tu Tịnh độ biết ứng dụng Phật pháp một cách linh hoạt trong đạo và đời, có năng lực khéo giáo dục, khéo giới thiệu pháp môn Niệm Phật thành Phật cho quảng đại quần chúng, khiến cho mọi người hiểu rõ pháp môn này mà tiếp nhận với chánh tri kiến. Thần Thông Hoa Bồ-tát cũng biểu thị sức thần thông và muôn hạnh lành của Bồ-tát kết thành đức hoa để tự trang nghiêm Pháp thân. Cũng nhờ đó mà chư Bồ-tát mới có đầy đủ phương tiện để thành tựu chúng sanh, nên kinh ghi: “Dạo khắp mười phương, hành quyền phương tiện, khiến cho chúng sanh vào Phật pháp tạng, rốt ráo bờ giác.” Bồ-tát lấy Nhất chân Pháp giới, vô tận chúng sanh làm duyên khởi, rồi từ trí giải ấy mà phát khởi ra Chư Bồ-tát Vạn hạnh để trang nghiêm Pháp thân; cho nên Thần Thông Hoa chính là Phật Hoa Nghiêm. Như vậy, nếu chúng ta muốn đạt đến cảnh giới của chư Phật, chư Bồ-tát thì phải tiếp tục hành trì Chư Bồ-tát Vạn hạnh.

Thế nào là Chư Bồ-tát Vạn hạnh? Chư là hằng hà sa số, không thể tính đếm nổi. Bởi vì công hạnh của chư đại Bồ-tát vô lượng, vô biên không thể nào tính đếm cho hết được, nên gọi là Chư Bồ-tát Vạn hạnh. Người muốn đạt đến đạo quả Bồ-đề thì phải phát tâm tu theo Bồ-tát đạo, phải trải qua năm mươi lăm tiến trình từ Thập-tín, Thập-trụ, Thập-hạnh, Thập-hồi-hướng, Tứ-gia-hạnh, Thập-địa, Đẳng giác v.v... và sau cùng là Diệu giác tức là thành Phật. Trong Viên giáo, Thập-tín hoàn toàn không có địa vị, bởi vì Thập-tín Bồ-tát chưa chứng được tịnh tâm kiên cố, còn có lúc tiến lúc lùi. Khi các Ngài đạt đến địa vị Sơ địa (tức Thập-trụ) thì Bồ-tát mới chứng được ba thứ bất thoái: Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái và Niệm Bất Thoái. Hàng Bồ-tát thuộc địa vị Thập-hạnh tu lục độ vạn hạnh nhằm mục đích đào thải những tập khí của chính mình từ vô thỉ kiếp đến nay. Thí dụ như bố thí để đoạn sạch tập khí tham lam, keo kiệt v.v... Thập-hồi-hướng là quay Phật sự hướng về Phật tâm; bởi vì tâm Phật là tâm của chính mình. Sau khi viên mãn địa vị Tam Hiền (Thập-trụ, Thập-hạnh, Thập-hồi-hướng) thì Bồ-tát mới vào Tứ-gia-hạnh. Tứ-gia-hạnh là bốn phương pháp tu hành với mục đích nhằm diệt mất cả tâm lẫn Phật và diệt sạch cả số lượng khiến cho tâm đạt đến chỗ Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác. Vì sao phải diệt luôn Phật tâm và số lượng? Bởi vì nếu trong tâm còn có ý niệm Phật hay số lượng thì tâm vẫn chưa thể thật sự bình đẳng nên cũng chưa thể thật sự thanh tịnh. Do đó, chỉ khi nào tâm của Bồ-tát đạt để chỗ “Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác” rồi thì lúc ấy Bồ-tát mới có thể đăng địa, và khi đã đăng địa rồi thì Chân như Phật tánh mới hiển bày. Đẳng giác Bồ-tát vẫn còn một phẩm Sanh Tướng vô minh cần phải phá sạch thì Tự tánh mới hoàn toàn hiển lộ, đạt đến địa vị Diệu giác, tức là thành Phật. Tóm lại, Chư Bồ-tát Vạn hạnh là vô số phương pháp mà chư vị Bồ-tát tu tập để cứu cánh Phật quả.

Vì chúng sanh có tám vạn bốn ngàn phiền não chướng, nên đức Phật mới chế ra tám vạn bốn ngàn pháp môn để tiêu trừ những khổ đau phiền não này. Lục độ Ba-la-mật chính là yếu chỉ cho Bồ-tát tu hành để đoạn vô minh phiền não; do đó muốn thành tựu đạo quả Bồ-đề, chư Bồ-tát phải trải thân ra cứu độ chúng sanh trong hằng hà vô lượng kiếp thì mới thực hành Lục độ Vạn hạnh được viên mãn. Chính đức Phật Thích Ca cũng phải trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, thực hành Bồ-tát Vạn hạnh rốt ráo để cứu độ vô lượng chúng sanh trong hằng hà vô số cõi trong thập phương thế giới, mới có thể thành Phật. Vì thế Phật dạy rằng: “Trong cõi tam thiên đại thiên thế giới này, không có nơi nào mà không có dấu chân ta và cũng không có chỗ nào mà không có xương ta để lại.” Chư Phật quá khứ từ lúc mới phát tâm Bồ-đề cho đến khi đạt được Phật quả viên mãn, tròn đầy, phải trải qua những cuộc hành trình vô cùng vô tận trong vô lượng cõi, trong vô lượng kiếp mà trong mình chỉ mang theo võn vẹn một tâm nguyện là cứu độ tất cả chúng sanh còn đang lặn hụp trong biển đời sinh tử trầm luân. Thế mà bây giờ, kinh Vô Lượng Thọ này lại nói, chỉ cần “phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật cầu sanh Cực Lạc” mà ngay trong đời này có thể chứng ngay địa vị Bồ-tát Bất thoái, tương đương với chư đại Bồ-tát phải trải thân trong hằng sa vô số kiếp, trong vô lượng cõi để tu hành mới thành tựu địa vị ấy. Đây chẳng phải đã nêu rõ sức mạnh Thần Thông Hoa vô cùng vô tận của A Di Đà Phật rồi hay sao?

Phật A Di Đà dùng quả đức mà Ngài đã thành tựu làm Nhân cho chúng sanh tu hành, để chúng sanh có thể mau chóng đăng địa thành Phật trong một đời mà không cần phải trải thân khổ nhọc tu hành trong hằng sa vô số kiếp. Đây đã chỉ rõ sức mạnh vô biên của Thần Thông Hoa. Sự vi diệu khó nghĩ bàn của Tịnh độ Pháp môn, một câu Phật hiệu chặt ngang tam giới, vượt qua ba thời, vãng sanh Cực Lạc, cứu cánh Phật quả, đều là do nhờ vào sức mạnh Thần Thông Hoa của Phật A Di Đà vậy! Khi chúng sanh đắc Niệm Phật tam muội, thì ngay khi ấy liền có đầy đủ công đức vạn hạnh để chứng được Thật tướng Pháp thân. Vạn hạnh ấy từ đâu mà có? Đó đều là do từ công đức bố thí vô cùng vô tận, thâm sâu vô lượng của đức Phật A Di Đà. Vì thế pháp môn này mới gọi là “Từ Quả Hướng Nhân.” Cũng bởi do lợi ích vô cùng lớn lao này mà vô lượng vô số chư vị Bồ-tát từ thập phương thế giới như mây kéo tới pháp hội này để lắng nghe, tiếp nhận kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ. Trong pháp môn Tịnh độ, Bồ-tát lấy “phát Bồ-đề tâm và nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật cầu sanh Cực Lạc” làm hoa nhân hạnh, kết thành đức hoa để trang nghiêm Pháp thân; do đó, Thần Thông Hoa cũng chính là Phật Hoa Nghiêm tam muội, là Niệm Phật Bảo Vương tam muội, vua trong tất cả các tam muội.

6. Quang Anh Bồ-tát biểu thị quang minh tối tôn, cao quý bậc nhất trong các thứ quang minh của Phật A Di Đà. Quang minh này thường luôn chiếu sáng rực rỡ khắp mười phương thế giới để tiếp độ chúng sanh, nên kinh nói: “Phật A Di Ðà, quang minh ánh rực, thắng vượt hơn ánh, mặt trời mặt trăng, ngàn ức vạn lần, quang minh tối tôn, vua trong Chư Phật.” “Quang” nghĩa là trí tuệ, “Anh” nghĩa là phát huy; Quang Anh biểu tượng cho kinh Vô Lượng Thọ có khả năng làm cho trí huệ của người thọ trì kinh này hiển lộ sâu rộng, đắc sanh Phật trí.

Thế Tôn bảo kinh Vô Lượng Thọ là pháp vô thượng, là đảnh pháp của Như Lai, tức là pháp cao nhất của Phật. Đảnh là điểm cao nhất trên đầu. Đảnh đầu Phật có một u thịt màu hồng nhô lên, có thể phóng hào quang mà không ai thấy được nên gọi là “vô kiến đảnh tướng.” Đó là một trong ba mươi hai tướng tốt của Phật. Trước khi đức Phật Thích Ca thuyết giảng kinh Vô Lượng Thọ hay bất cứ bộ kinh Đại thừa nào thì từ đảnh đầu liền phóng ra hào quang soi chiếu khắp mười phương thế giới, tức là Ngài dùng trí tuệ siêu việt để xem xét khế cơ và khế lý của tất cả chúng sanh có khế hợp với giáo lý của kinh không? Nói cách khác đức Phật dùng trí tuệ siêu việt của Ngài soi chiếu mà thấy rõ nếu chúng sanh có đầy đủ tri kiến để lãnh hội giáo lý thì Ngài mới giảng kinh. Vì thế, đảnh pháp chính là trí tuệ, từ bi và giải thoát siêu việt của tất cả chư Phật để soi chiếu mà cứu độ chúng sanh, đưa họ từ bờ mê sinh tử đến bến bờ giác ngộ thanh tịnh Niết-bàn. Cổ đức có câu: “Khi tâm thanh tịnh thì có ánh trăng soi chiếu trên mặt nước. Khi ý tĩnh lặng thì như bầu trời không gợn tí mây.” Khi ánh trăng soi chiếu đến mặt nước hồ thu trong sạch và yên tỉnh thì ảnh của nó sẽ hiện rõ ràng trong nước. Cũng giống như vậy, nếu chúng sanh nào có được tâm thanh tịnh, thì hào quang của đức Phật sẽ chiếu đến và tỏa sáng tâm họ. Nhưng nếu tâm của chúng sanh ô nhiễm như một vũng nước bùn đục ngầu, thì không có thứ ánh sáng nào chiếu soi qua được, ánh trăng cũng chẳng thể hiện rõ bóng hình trong vũng bùn đục ngầu. Tâm định ví như bầu trời trong sáng không có mây, là trạng thái vi diệu không thể diễn tả, không thể nghĩ bàn. Cho nên, người có tâm thanh tịnh thì sẽ tiếp nhận được sức mạnh của kinh Phật chiếu tới tận thâm tâm, nhờ đó mà mau chóng đạt được Đại Định Niệm Phật tam muội.

7. Bảo Tràng Bồ-tát - kinh này ghi: “Các ma ni quí, vua các món báu, đươm chuổi anh lạc, trang sức trụ báu.” Ngọc ma-ni là quí nhất trong các món báu vật, nên được gọi là vua trong các món báu. Các ngọc ma-ni quí được đươm thành chuổi anh lạc thì gọi tắc là tràng báu ma-ni-vương hay Bảo Tràng. Các kinh Đại Thừa thường dùng Bảo Tràng để ví cho Phật trí, nên Bảo Tràng Bồ-tát ở đây biểu thị kinh này là trí huệ thù thắng, là thật trí của Như Lai, hay còn gọi là Phật tri kiến. Trụ báu ví cho Phật pháp thân. Tóm lại, kinh này hay trí huệ này được ví như tràng báu ma-ni-vương hay Bảo Tràng dùng để trang hoàng Phật pháp thân.

8. Trí Thượng Bồ-tát biểu thị kinh này là diệu trí vô thượng, tức là Phật trí siêu xuất hết thảy các trí, là vô thượng thượng trí, là pháp môn kỳ đặc, là đạo tối thắng trong suốt bốn mươi chín năm nói pháp của đấng Thích Tôn, rốt cùng đều là dẫn dắt chúng sanh quy về Tịnh độ Di Đà. Kinh nói: “Trí không nghĩ bàn, Trí không xưng lường, Trí rộng đại thừa, vô đẳng vô luân, thù thắng tối thượng” là nói đến diệu trí vô thượng của Như Lai hiển bày trong kinh này.

9. Tịch Căn Bồ-tát – Tịch Căn nghĩa là các căn thanh tịnh, trí và cảnh đều vắng lặng, tịch diệt. Tịch Căn biểu thị hai thứ: Một là kinh này chỉ nói pháp Nhất thừa, tức là pháp môn Không, Vô tướng Vô vi. Hai là kinh này biểu thị thọ mạng vô lượng, tức pháp thân Phật tịch mà thường chiếu. Tịch là căn bổn có công năng chiếu soi vô cùng tận, tuy chiếu mà lại thường tịch, nên kinh nói: “Rốt ráo Bồ-tát, các Ba-la-mật, và thường an trú, nơi tam ma địa, không sanh không diệt, xa cảnh Nhị thừa.” Cùng với ý nghĩa này nhà Thiền nói một câu đơn giản: “Sanh mà vô sanh.”

10. Tín Huệ Bồ-tát – Tín Huệ nghĩa là vĩnh viễn cắt đứt lưới nghi, tin rõ Phật trí là vô thượng trí huệ. Tín Huệ biểu thị rằng: Tịnh độ tông là pháp khó tin, nếu ai tin nhận được pháp môn này đều là do huệ căn sẵn có từ đời trước, nên kinh ghi: “Đã từng cúng dường các Như Lai thì hay vui vẽ tin việc này,” “thân người khó được, Phật khó gặp, tín huệ nghe pháp khó trong khó.”

11. Nguyện Huệ Bồ-tát biểu thị trí huệ rộng lớn, là đại nguyện vương của Phật Di Ðà được hỗ trợ bằng tín huệ của các bậc Chánh sĩ. Nguyện Huệ cũng biểu thị: Tịnh Ðộ dùng “Tín, Nguyện, Trì danh” làm tông.

12. Hương Tượng Bồ-tát - kinh ví thân Phật và Bồ-tát như Hương Tượng tỏa ra hương thơm, mùi hương xông khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, chúng sanh nào ngửi đặng đều tu hạnh Phật. Sức Hương Tượng rất mạnh, biểu thị sức mạnh lớn lao vô biên của Di Đà nguyện lực có thể giúp chúng sanh không có đủ công đức và trí huệ, chẳng cần khổ nhọc trợ tu các pháp môn khác, chỉ cần chấp trì ba điều kiện tất yếu “Tín, Nguyện, Hạnh, niệm Phật” mà cũng có thể vượt lên trên mười pháp giới, vãng sanh Cực Lạc, một đời thành Phật.

Hương Tượng cũng biểu thị người niệm Phật đạt được định tâm kiên cố, vững chắc, không bị lay động khi đối diện với tất cả hiện tượng của vạn pháp trong thế gian; nhờ vào sức mạnh của định niệm Phật mà người tu Tịnh Nghiệp không còn vô minh, phiền não đau khổ quấy phá nữa. Do đó, “trì danh hiệu Phật” là phương tiện thắng diệu, không có phương tiện nào sánh kịp, là đảnh pháp của Như Lai có thể đưa chúng sanh tới chỗ giải thoát giác ngộ viên mãn. Lại nữa, một khi chúng ta đạt được Niệm Phật tam muội thì tự mình có thể viên thông tất cả các tam muội khác như Thủ Lăng Nghiêm tam muội, Hoa Nghiêm tam muội, Phổ Đẳng tam muội, Bát-nhã tam muội, Giải Thoát tam muội, Chân như tam muội v.v... cho nên, Niệm Phật tam muội còn được gọi là Niệm Phật Bảo Vương tam muội. Vì sao? Vì Niệm Phật tam muội là cái định kiên cố, rốt ráo bền chắc, là Tự tánh thanh tịnh bản nhiên, là bản lai diện mục, là Chân tâm, là Phật tri kiến có sẵn trong tất cả chúng sanh. Định niệm Phật không hề dời đổi, không hề có tán loạn và cũng không cần sự hổ trợ của bất cứ công phu tu tập nào khác. Mọi căn cơ đều có khả năng thực hành một pháp chuyên nhất; đó là tự nhiên nhiếp giữ câu Phật hiệu nơi tâm mình trong tất cả các thời, các chỗ và các sinh hoạt trong cuộc sống đời thường, mà lại thành tựu đại định kiên cố của chư đại Bồ-tát. Đấy đều là do nơi sức mạnh của Hương Tượng xông ra từ Phật A Di Đà, chư Bồ-tát và nơi tự thân của người niệm Phật cùng hòa nhập thành một thể; cho nên sức mạnh ấy vô cùng lớn lao ví như sức mạnh của con voi sáu ngà có khả năng kéo chúng sanh ra khỏi tam giới, vãng sanh Cực Lạc.

Thế nào là sức mạnh Hương Tượng của tự thân? Mỗi người trong chúng ta bất luận là xuất gia hay tại gia đều siêng năng học tập kinh Vô Lượng Thọ, rồi đem sự hiểu biết chứng ngộ của mình mà diễn nói để giúp người khác cùng hiểu rõ pháp môn Tịnh độ. Mỗi người đều phải tự mình đảm trách việc này, không được đổ trách nhiệm cho người khác. Tại sao vậy? Bởi vì mỗi người đều là Phật, mà đã là Phật thì phải có tâm giác ngộ chúng sanh, phải thật sự làm, và làm một cách tự tại, không phân biệt xuất gia hay tại gia, không kinh không sợ bất cứ một trở ngại nào. Người thật sự giác ngộ thì tự nhiên có sức mạnh độ sanh vô biên, ví như sức mạnh của con voi sáu ngà của Ngài Phổ Hiền có khả năng lôi kéo chúng sanh ra khỏi tam giới, vãng sanh Cực Lạc; đó là sức mạnh của Hương Tượng được nói trong kinh này.

Phàm phu chúng ta, ai nấy đều có tâm phân biệt và tâm phan duyên, luôn duyên theo trần cảnh mà phát sanh phiền não, khổ đau, rồi từ đó chuốc lấy quả báo luân hồi, sanh sanh diệt diệt. Niệm Phật là quay cái niệm duyên theo trần cảnh đó trở về với Chân tâm. Vì niệm Phật phát xuất từ Bồ-đề tâm nên tâm ấy bao trùm khắp cả vũ trụ, tâm ấy gọi là Đại. Cái tâm niệm Phật ấy lại thường tịch tịnh, không vọng động, nên gọi là tịch định. Do vậy, Niệm Phật tam muội còn được gọi là Đại Tịch Định hay gọi tắc là Đại Định. Nếu hành nhân gìn giữ được cái tâm thường luôn niệm Phật, không bị thời gian thay đổi, không bị không gian chuyển dời, ở nơi chư Phật không thêm mà ở nơi chúng sanh cũng không bớt, như như bất động, trước sau như một thì sẽ được Niệm Phật tam muội. Trong cảnh giới Nhất Tâm ấy, tất cả vũ trụ nhân sanh, hết thảy muôn pháp, nhân quả trước sau đều hiện rõ trong tâm, nên Niệm Phật tam muội chính là Đại Định. Người niệm Phật có được Đại Định đều là do nhờ vào sức mạnh của Hương Tượng, tức là oai lực gia trì của A Di Đà Phật, thập phương chư Phật và chư Bồ-tát chúng, và đó cũng là năng lực của tự thân.

13. Bảo Anh Bồ-tát đại biểu cho Bốn Mươi Tám Đại Nguyện của Phật A Di Đà. Bốn Mươi Tám Nguyện này là tinh hoa trong tất cả diệu pháp, vì sao? Bởi vì Di Ðà Nguyện Hải được trang nghiêm bằng vô lượng công đức diệu bảo, có thể khiến cho phàm phu không có công đức mà có thể ở trong một kiếp mau chóng vãng sanh, thăng lên địa vị Bất Thối, chứng nhập Niết-bàn. Đó mới là thứ quý báu nhất trong các thứ báu, nên gọi là Bảo Anh, như kinh này nói: “Trong tay thường phát của báu vô tận, vật dụng trang nghiêm. Thảy các thứ cần đều là tối thượng, lợi lạc hữu tình. Do nhân duyên nầy, có thể khiến cho vô lượng chúng sanh phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.” “Bảo” là kho báu của trí huệ trong Chân tâm Tự tánh, “Anh” là tinh anh, sáng suốt, rõ thông không ngằn mé. Kinh Vô Lượng Thọ chính là của báu vô tận mà chư Phật ban bố nhằm để giúp chúng sanh khai mở kho tàng tuệ giác trong Tự tánh, phá trừ tất cả những dục vọng, đánh tan phiền não khổ đau, tẩy sạch những vô minh đen tối và sau cùng đạt đến cứu cánh tối thượng, đó là chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Do nhân duyên này, nên kinh Vô Lượng Thọ được gọi là Bảo Anh. Phật vì lòng từ bi vô hạn, nên nói ra kinh Vô Lượng Thọ, chủ yếu là để dạy chúng sanh “phát Bồ-đề tâm, Nhất Tâm chuyên niệm danh hiệu Phật,” tức là Ngài bảo chúng sanh phải đem cái tâm Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác ngộ và Từ bi của mình để niệm danh hiệu Phật. Bởi vì danh hiệu Phật là quy kết của Bốn Mươi Tám Bi Nguyện của Phật A Di Đà, có khả năng khai mở và phát huy tuệ giác từ Chân tâm Tự tánh của mọi căn cơ chúng sanh, nên danh hiệu Phật cũng chính là Bảo Anh. Phật và chúng sanh thật ra đều có đồng một Chân tâm Thể Tánh, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được Thể tánh ấy nên vĩnh viễn thoát ly sanh tử, tự do giải thoát, lại có được thần thông tự tại, trí tuệ vô ngại. Ngược lại, chúng sanh vì vẫn còn mê lầm, chưa thấy Chân tâm Thể tánh, nên suốt đời sống trong điên đảo khổ đau và phải chịu trầm luân trong biển sanh tử luân hồi. Thế nhưng, Chân tâm Thể tánh không bao giờ mất đi, một khi chúng sanh ngộ ra được Chân tâm thì liền thành Phật. Cho nên mới nói, ngộ được Chân tâm thì giống như là tỉnh giấc mộng, còn không ngộ được Chân tâm thì giống như là còn đang ngủ chiêm bao.

Vị Bồ-tát thứ mười bốn là Trung Trụ, đức danh này dạy chúng ta lấy “trì danh niệm Phật” làm phương pháp để an trụ tâm trong Trung đạo mà thành tựu sức Định-Huệ (Bát-nhã vô tri). Vị Bồ-tát thứ mười lăm là Chế Hạnh, đức danh này dạy chúng ta phương pháp tu hành trong pháp môn Tịnh độ là lấy “trì danh niệm Phật” làm nhân. Còn Bồ-tát thứ mười sáu tên là Giải Thoát, đức danh này đại biểu cho quả báo cuối cùng của pháp “trì danh niệm Phật” chính là vãng sanh Cực Lạc, vĩnh viễn giải thoát, một đời thành Phật. Vì ý nghĩa của ba đức danh này vô cùng quan trọng đối với người hành trì pháp “trì danh niệm Phật,” nên chúng ta sẽ thảo luận riêng biệt và thật kỷ càng hơn trong ba bài viết lần lượt kế tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

test banner