Đời vua Lê Thánh Tông, nghi thức, nghi lễ cưới hỏi chính thức được đưa vào Quốc triều Hình luật (còn gọi là Luật Hồng Đức), bộ luật đầu tiên của Việt Nam.
Các nghi lễ, nghi thức kết hôn ghi trong chương Hộ hôn bao gồm: Lễ nghị hôn (là lễ chạm mặt hay nôm na là dạm hỏi), Lễ định thân (hỏi tên tuổi cô gái, đã kết hôn lần nào chưa), Lễ nạp trưng (dẫn đồ cưới) và Lễ thân nghinh (tức là lễ đón dâu).
Nếp xưa, tục cũ
Dù phong tục đã được triều Lê luật hóa nhưng tùy theo văn hóa của từng vùng miền mà cưới hỏi cũng có sự khác nhau, từ lễ vật ăn hỏi, đồ dẫn cưới, thách cưới, cỗ cưới. Điểm chung là nhà giàu hay nhà nghèo cũng không thể thiếu được chè, chai rượu và quan trọng là cơi trầu vì “miếng trầu là đầu câu chuyện”.
Lễ đón dâu xưa có rất nhiều thủ tục, đi đầu đám rước là những người giàu, có địa vị trong làng xã. Khi có đám cưới lý trưởng cho chăng dây để bắt cheo (hai họ muốn đi qua phải đưa cho làng ít tiền). Vì có tích Lục súc tranh công nên mâm cỗ cưới chỉ xếp 5 người. Cỗ cưới lấy thịt lợn là chính. Từ thịt lợn người ta chế biến ra nhiều món. Lại có nơi cỗ cưới dứt khoát phải có thịt chó, không có dân làng tẩy chay. Khi ăn cỗ khách không bao giờ ăn hết mà thường giữ lại đĩa xôi và thịt lợn luộc sau đó chia nhau mang về nhà cho con cháu.
Ở các vùng quê, đại diện gia đình cô dâu chú rể đi mời ăn cưới phải gặp được người cần mời, nếu đến mà chưa gặp thì phải gặp bằng được. Mời qua trẻ con người đó sẽ tự ái không đến là mang tiếng với làng. Vì đám cưới là ngày vui nên đi dự đám cưới hay ăn cỗ cưới ai cũng phải ăn mặc tươm tất. Bên trong có thể áo rách nhưng bên ngoài phải khoác áo đẹp.
Nghi thức đám cưới xưa (Ảnh.Trí thức trẻ)
Ngày cưới cô dâu mặc áo tứ thân bằng lụa màu sáng còn chú rể mặc áo lương. Theo thời gian và do ảnh hưởng văn hóa nước ngoài nên cưới hỏi cũng có sự thay đổi, xa xưa hôn lễ thường diễn ra vào chiều muộn vì đó là khoảng thời gian dương qua âm lại, âm dương giao hòa là thuận theo lẽ đất trời nhưng công việc đồng áng nên hôn lễ có thể diễn ra vào bất kỳ thời điểm nào trong ngày, miễn là giờ tốt.
Cưới hỏi ở Hà Nội
Hà Nội xưa là kinh đô rồi sau đó là thủ đô, lại có nhiều cơ sở sản xuất hàng thủ công, buôn bán phát triển, có đông tầng lớp trung lưu và trí thức nên cưới hỏi cũng có phần khác.
Trong lễ vật ăn hỏi mang sang nhà gái, không thể thiếu cốm và hồng, gia đình khá giả còn thêm lợn sữa quay. Tục này bị phê phán là phong kiến nên bị bãi bỏ vào năm 1946.
Trong thập niên 20, lễ vật ăn hỏi còn có thêm thuốc lá điếu. Năm 1920 Hà Nội mời cưới bằng thiếp, kèm theo gói chè nhỏ và hạt sen, người khởi xướng là nhà tư sản Bạch Thái Bưởi khi ông tổ chức cưới con. Và đám cưới này cũng là đám cưới đầu tiên không tổ chức ở tư gia mà tổ chức ở khách sạn.
Từ những năm 1920 đến năm 1940, Hà Nội có tục mừng đám cưới bằng đôi câu đối. Chữ thì thuê các nhà Nho viết rồi mang ra phố Hàng Trống thuê thợ thêu.
Đầu những năm 1930 lệ đón và đưa dâu bằng xe song mã được thay bằng ô tô. Xe được trang trí hoa và kết dây băng bằng lụa màu. Đi sau ô tô là đoàn xe tay của nhà trai và nhà gái. Chú rể cũng không mặc áo dài lam đeo thẻ ngà mà nhiều người mặc comple. Cũng trong thập niên này một số đám cưới đã chụp ảnh làm kỷ niệm.
Cỗ cưới ở Hà Nội rất được chú trọng. Với nhà giàu, mâm cỗ bao giờ cũng phải đủ bốn bát, sáu đĩa. Vì theo quan niệm xưa con số 10 tượng trưng cho sự đầy đặn và cũng là lời chúc hạnh phúc cho đôi vợ chồng mới. Sáu đĩa bao gồm: Một đĩa thịt gà da vàng ruộm, một đĩa thịt lợn quay xếp hình cánh hoa đều tăm tắp, một đĩa giò, một đĩa chả quế, đĩa xôi gấc và đĩa nộm thập cẩm. Bốn góc mâm là bốn bát canh gồm: Bát măng ninh chân giò, bát mọc thả nấm, chim bồ câu hầm hạt sen và bát mực nấu rối. Canh mực nấu rối là thử thách với người nấu cỗ, nó gồm: Xu hào, cà rốt thái chỉ, trứng tráng thái chỉ, giò lụa thái chỉ, mực khô thái chỉ xào cháy cạnh. Nhà sang còn có thêm hoa quả tráng miệng hay đĩa chè kho.
Cỗ cưới nhà nghèo ít đĩa ít bát hơn nhưng không thể thiếu được thịt gà luộc và xôi gấc, hai món biểu trưng cho sự thịnh vượng, may mắn và hạnh phúc. Phòng cưới xuất hiện ở Hà Nội vào năm 1932, không phải đáp ứng cho các gia đình có diện tích chật chội hay theo văn minh của Pháp mà nó xuất phát từ nhu cầu của người nông thôn ra Hà Nội làm thuê lấy nhau. Họ không dám nhờ nhà người quen. Người đầu tiên có sáng kiến này là nhà Cả Tròn ở 21 phố Phùng Hưng, cho thuê phòng cưới và chỗ ngủ với giường, chiếu, chăn... được bày biện rất lịch sự.
Những đám cưới nổi tiếng và tai tiếng xứ Bắc
Năm 1930, nhà tư sản Bạch Thái Bưởi lại tổ chức cưới cho con trai út. Chú rể du học ở Pháp về cưới con gái ông Cửu Nghi, một người giàu có ở phố Hàng Bồ, Hà Nội. Chú rể không mặc áo lam, đeo thẻ ngà đón dâu bằng xe song mã mà mặc comple thắt cà vạt. Vì chú rể ở Hải Phòng nên ông Bạch Thái Bưởi thuê máy bay đi đón dâu. Và lần đầu tiên ở Việt Nam, đám cưới đón dâu bằng máy bay. Không những thế, người ta còn loan tin, cô dâu chú rể sẽ thả hoa giấy bên trong có tiền trinh làm bà con từ Hưng Yên đến Hải Phòng mong ngóng tiếng máy bay. Cuối cùng hoa thì có thật nhưng tiền thì không.
Năm 1936, ở làng Nghi Tàm có đám cưới gây xôn xao Hà Nội, các báo được dịp bàn tán. Đó là đám cưới con gái ông Hán Cẩn. Ông này là ký lục ở Tòa Thống sứ Bắc Kỳ, ăn mặc theo kiểu Tây, sinh hoạt cũng rất Tây thế nhưng khi nhà trai đến đón dâu, Hán Cẩn bắt con rể phải lạy sống mới cho đón. Chú rể cũng dân du học ở Pháp thấy vậy bỏ về luôn, thế là đám cưới tan.
Đám cưới tai tiếng cả xứ Bắc Kỳ đó là đám cưới con gái Thống sứ Bắc Kỳ tổ chức năm 1936 ở khách sạn Metropole. Con gái Thống sứ là Huguette đã chọn bốn cô gái Việt phù dâu, trong đó có hai cô là con Tổng đốc Vi Văn Định. Viên Thống sứ mời tất cả các quan hàng tỉnh, hàng phủ và huyện của Bắc Kỳ. Đã đi dự đám cưới con quan Thống sứ thì ai cũng phải có đồ mừng mà mừng cưới con quan không thể rẻ rúng nên các vị phải mua đồ có giá trị. Hôm đó cửa hàng nữ trang Perroud ở phố Tràng Tiền, Hà Nội cháy hàng. Perroud là Chủ tịch phòng Thương mại Hà Nội, ngoài bán đồ nữ trang còn làm đại lý đồng hồ Omega và cho vay nặng lãi. Sau ngày cưới, những món đồ nữ trang đắt tiền ấy lại thấy bày bán ở cửa hàng của Perroud.
Cưới đời sống mới và cưới thời chiến
Năm 1958, miền Bắc đi theo con đường XHCN nên thách cưới, mâm cao cỗ đầy, đón dâu bằng ô tô... bị cho là lối sống của chế độ thực dân, phong kiến phải loại bỏ ra khỏi đời sống. Khái niệm cưới đời sống mới ra đời, nghi lễ và nghi thức đơn giản, cỗ cưới chỉ mời người thân, không mời cả làng cả tổng.
Rước dâu kiểu xưa. (Ảnh. Trí thức trẻ)
Thời kỳ này Hà Nội thực hiện cải tạo tư bản tư doanh, nhiều nhà sợ bị quy thành phần tư sản hay tiểu tư sản thành thị chỉ làm cỗ nhỏ. Thậm chí có gia đình chỉ làm tiệc ngọt gồm bánh kẹo, thuốc lá và nước chè mời khách.
Năm 1964 Mỹ đánh phá miền Bắc bằng máy bay nên đã sinh ra cưới thời chiến. Do kinh tế khó khăn, “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” nên tiêu chuẩn cho một đám cưới gồm: 2kg kẹo, 1kg chè, 2 tút thuốc lá Tam Đảo hoặc Trường Sơn, 1 đôi chiếu và chiếc màn đôi bằng vải xô. Thuốc lá mang sang nhà gái còn nhà trai hút thuốc cuộn. Trừ một số ít người làm cơ quan, xí nghiệp có thể mượn ô tô đi đón dâu, còn lại các đám cưới đón bằng xe đạp.
Dù cưới hay ở nhà, tại hội trường cơ quan, xí nghiệp thì phông đều có chữ lồng tên cô dâu và chú rể, có thêm đôi chim câu mớm mỏ nhau cắt bằng giấy. Băng rôn trên tường là khẩu hiệu “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”, “Thắm tình Tổ quốc, đẹp tình ta”.
Phần lớn chú rể đều mặc quần Âu, áo sơ mi trắng “cắm thùng”, đi dép xăng đan còn cô dâu có khi là áo dài, nhưng cũng có người quần lụa, áo sơ mi trắng. Cưới thời chiến nhưng vẫn giữ nếp có phù dâu, phù rể, đốt pháo Trúc Bạch. Cũng giống cưới đời sống mới, cưới thời chiến cũng có văn nghệ “cây nhà, lá vườn”. Ai hát xong được hội hôn tặng một tràng vỗ tay còn nhận được 1 chiếc kẹo mềm.
Nguyễn Ngọc Tiến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét