Tham luận Hội thảo 1000 năm THIỀN SƯ VẠN HẠNH VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHÂN SINH QUAN CỦA PHẬT GIÁO XÂY DỰNG VƯƠNG TRIỀU NHÀ LÝ - Chùa Vinh Phúc

Hoằng Dương Chánh Pháp - Trưởng Dưỡng Đạo Tâm - Phụng Sự Nhân Sinh - Hành Bồ Tát Đạo

test banner

Post Top Ad

test banner

Thứ Tư, 27 tháng 6, 2018

Tham luận Hội thảo 1000 năm THIỀN SƯ VẠN HẠNH VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHÂN SINH QUAN CỦA PHẬT GIÁO XÂY DỰNG VƯƠNG TRIỀU NHÀ LÝ


            T.T Th.s Thích Thiện Hạnh             Hiệu phó Trường Trung Cấp Phật Học tỉnh Bắc Ninh

I. Thiền sư Vạn Hạnh mang ánh sáng tâm linh xây dựng nước Việt huy hoàng.

A. Thân thế và cuộc đời thiền sư
          Thiền sư Vạn Hạnh (938-1018) là tổ đời thứ 12 dòng thiện Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Ngài vốn là người châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang, phủ Thiên Đức (này là thôn Đại Đình, xã Tân Hồng, thĩ xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Có sách ghi ngài là họ Lý, hoặc họ Nguyễn, nhưng không biết tên thật, năm sinh, năm mất của ngài đều chưa rõ; có sách ghi?- 1018, hoặc ghi 938- 1018, và cũng có ghi 938- 1025... Năm 21 tuổi xuất gia với Thiền sư Thiền Ông tại chùa Lục Tổ (nay ở làng Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Ngài rất chuyên cần tinh tấn học tập, đạo hạnh cao dày, sau khi Thiền Ông viên tịch, ngài chuyên tu tập pháp tổng trì tam muội, nên có thần thông; nói ra đều gì thì thiên hạ đều cho là lời sấm (có tính tiên tri) là một tu sĩ Phật giáo Đại Cồ Việt  thuộc thế hệ thứ 12 dòng Thiền Nam phương Tỳ Ni Đa Lưu Chi, lúc còn thiếu thời Ngài thông minh khác thường,  tinh thông tam giáo (Nho, Phật, Đạo), nghiên cứu hàng trăm bộ kinh luận Phật giáo, không ham danh lợi, không trọng giàu sang. Ngài là một trong những trí thức Phật giáo làm cố vấn cho vua Lê Đại Hành (trị vì 980-1005), rất tôn kính Thiề  sư, đồng thời là người thầy của Lý Công Uẩn, đã hướng dẫn cho vị này một thời gian dài trước và sau khi triều Lý thành lập. 
          Ngài được xem là người có tài tiên đoán, đã vận dụng khả năng này để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, mở ra triều Lý, triều đại lâu dài đầu tiên trong sử nước Việt. Thiền sư đã đem hết khả năng và tinh thần “ dung hợp Nho-Lão-Phật ” của mình để giúp vua trị quốc an dân, đúng với tư cách của một vị lãnh đạo không những về tâm linh, mà còn về hành động giúp dân an cư lạc nghiệp.
          Theo sách Thiền uyển tập anh (1337), Ngài còn để lại một số bài thơ, trong đó đặc biệt có bài Thị đệ tử (Bảo đệ tử). Tiêu đề là do người đời sau đặt. Sách Thiền uyển tập anh chép rõ: "Ngày 15 tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 9 (1018), sư không bệnh, gọi tăng chúng đến đọc bài kệ:
“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.”
Dịch nghĩa
“ Thân như bóng chớp có rồi không,
Cây cỏ xuân tươi, thu đượm hồng,
Mặc cuộc thịnh suy không sợ hãi,
Thịnh suy như cỏ hạt sương đông.”
đây là bài kệ do Ngài Vạn Hạnh Thiền Sư  đọc trước khi qui tịch và được Thiền sư giải thích rõ thêm về bản chất sự tồn tại cái bản ngã “không lấy chỗ trụ mà trụ”, "chẳng lấy chỗ vô trụ mà trụ"... Xét cho cùng, Phật giáo cũng chỉ là một cách nhìn, một cách hình dung về đời người và thế giới con người với tất cả những tham, sân, si, ái, ố, hỷ, nộ, bình đẳng cùng quan niệm và những cách giải thích khác nhau của tất cả các dòng phái triết học và tôn giáo khác trên cõi đời này. Đó là ý thức về khả năng siêu hoạt siêu thức trong một tâm linh, và biến những tác động hưng khởi ở nội và ngoại tại không nghịch lý trong việc tạo nên tương quan thiết dụng cho con người. Dung hòa những phức tạp xuất hiện trong ý thức để hoán chuyển thành nguồn thực dụng nuôi dưỡng tâm linh siêu thể. Có phải chăng đó là điều mà sau này Vạn Hạnh Thiền sư đã phát huy cho cả cuộc đời của mình. Đồng thời ngài còn thông suốt tường tận ba luồng tư tưởng phổ thông  của thời bấy giờ.  Song song trong việc nghiên cứu tu tập về Thiền để đạt được thức giác trong đời sống tâm linh, giải phóng ra khỏi triền phược hệ lụy đang đè nặng trong mỗi người. Còn có khuynh hướng nghiên cứu những Dịch lý, tướng số pháp thuật, lương dược nhằm để khai ngộ và đi vào cuộc đời để dựng xây nền thịnh vượng cho quốc gia. Khuynh hướng nầy rất mạnh trong Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi mà Thiền sư Định Không là người đầu tiên ứng dụng điều đó. Và những điều tiên đoán của sư Định Không sau nầy khoảng 200 năm sau sẽ có một nhân vật phi thường xuất hiên ở làng Cổ Pháp đó là Thiền Sư Vạn Hạnh, người dựng nên nhà Lý, cũng có thể là ngài Vạn Hạnh hiện thân đó chính là ngài Định Không? Bởi vì một con người cưu mang hoài bão hưng phục cho Dân Tộc mà niềm mơ ước nầy chưa thành, thì cũng có thể vì đại nguyện cao cả ngài trở lại để làm một Vạn Hạnh thièn sư độc dị, siêu nhân trong cả ngàn năm trước và sau chưa có một nhân vật tài ba nào có thể đương đầu nổi.“Trụ tích trấn vương kỳ”. Nghĩa là (dùng gậy của nhà Phật để trấn giữ kinh kỳ của nhà Vua)
          Ngay từ khi được sự tôn kính của vua Lê Đại Hành, Vạn Hạnh thiền sư đã tỏ ra xuất sắc trong việc tiên đoán sự thắng bại của quân ta “Niên hiệu Thiên Phúc năm thứ nhất 980 tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang đánh nước ta, đóng binh ở núi Cương Giáp Lãng, vua Lê Đại Hành mời Sư đến hỏi “quân ta thắng bại lẽ nào?” Sư đáp “Trong ba, bảy ngày thì giặc ắt lui”. Quả đúng như lời Sư đoán”. Khả năng tiên đoán đó phải chăng nhờ tự nội tâm thực chứng thông suốt được quá khứ hiện tại và vị lai? Sự tương quan giữa một tâm linh với vạn vật trong vũ trụ vốn có sẵn trong mỗi tâm thức, nếu khơi dậy đúng mức thì sơn hà đại địa nằm trong lòng bàn tay không ở đâu xa. Con người vốn chứa đựng và là tiểu vũ trụ, sự quan hệ tương hợp với đại vũ trụ không phải là điều huyền ảo.
        Riêng thiền sư Vạn Hạnh mặc dù giúp nhà Tiền Lê nhưng khi thấy tình trạng tệ lậu của đất nước do Lê Long Đĩnh tạo ra, thiền sư đã không ngần ngại ủng hộ Lý Công Uẩn trong việc chấm dứt chế độ dã man này. Con vua Lê Đại Hành là Lê Long Việt lên ngôi mới được ba ngày thì bị anh là Lê Long Đĩnh giết chết. Thiền sư Vạn Hạnh thấy bất nhẫn nên đã ôm xác Long Việt mà khóc. Ông đã nhìn thấy nguy cơ của triều đình nhà Tiền Lê nên bắt đầu nghĩ tới việc đưa Lý Công Uẩn lên nắm chính quyền.
Vì vậy trong lịch sử nước ta, việc thay đổi một triều đại thường diễn ra nội bộ triều đình giữa họ này vói họ kia, khởi đầu bởi cái cũ quá xấu bị cái mới tiến bộ hơn phủ định, thường do một lực lượng làm trung gian tạo thế đòn bẩy, hoặc do phe này kình chống phái kia để tranh quyền đoạt lợi và mưu toan tranh bá đồ vương. Triều Ngô, Đinh, Lê đang là bài học kinh nghiệm nóng hổi tạo tiền đề cho Lý thay Lê không khó do một lực lượng trung gian có uy tín, đã xét thấy cần thay cũ đổi mới. Đó là thế lực của các nhà sư đang ở thế thượng phong, được các vua tiên đế trọng dụng mà thiền sư Vạn Hạnh là đại biểu. Nhưng có nhiều lý do khiến cho thiền sư triều Lý tham dự vào chính sự. Theo lý giải của Nguyễn Lang, tác giả "Việt Nam Phật giáo sử luận" (Sđd) thì các nhà sư tham gia chính sự mà không tham dự chính quyền bởi vì họ không nhận chức vụ quyền lực trong nội các, khi cần chỉ tới giúp ý kiến rồi về chùa. Lý do thứ nhất, họ là những người có học - trí thức, có ý thức về quốc gia, dân tộc, sống gần gũi với quần chúng và biết được những khổ đau của người dân đang bị cai trị bằng chính sách hà khắc bóc lột. Lý do thứ hai, họ không có ý tranh giành ngôi báu, không cần quyền bính và địa vị ngoài đời nên được mọi người tin họ. Lý do thứ ba, họ không khuôn sáo thực hiện "trung quân" một chiều để cứng nhắc "bất cộng nhị quân", họ biết sáng suốt thờ vua nào và từ chối ủng hộ vua nào để đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Lý do thứ tư, nhà vua cần tới tri thức của họ về nhiều mặt để trị quốc bình thiên hạ.
Những điều trên đã cho thấy họ hơn hẳn các nhà Nho. Nhân tài, hiền tài thuộc về tầng lớp trí thức có được là nhờ vào nền giáo dục quốc gia huống chi ở nước ta thời ấy chưa có nền giáo dục đúng nghĩa như dưới triều nhà Lý, nhà Trần mà chỉ dựa vào các đạo Khổng, đạo Lão và đạo Phật, trong đó đạo Khổng thì chỉ thịnh vào triều đại phong kiến sau này.
         Cho nên Vạn Hạnh thiền sư còn xử dụng tuyệt diệu hơn trong việc tạo dựng nên một Lý Công Uẩn, sau nầy trở thành một vị minh quân, một vĩ nhân của Dân Tộc. Ngài muốn chuyển hóa một xã hội Việt Nam bạo trị sang một chế độ xã hội Việt Nam đức trị, biến một quốc gia Việt Nam đang suy vi thành một quốc gia Việt Nam phú cường, hưng thịnh. Thiền sư Vạn Hạnh đã ra tay hành động, không phải vì Phật giáo ( vì qua ba chế độ độc lập Ngô, Đinh, Lê thì Phật giáo đã là quốc giáo ), luôn ở trong sự âm thầm, kiên trì chuẩn bị cho cuộc vận động cách mạng 1009, thiền sư đã chuẩn bị rất nhiều tâm huyết hàng chục năm để trang bị cho Lý Công Uẩn một nền giáo dục toàn bích, kết hợp dân tộc tính, Phật giáo tính, thời đại tính, đồng thời lại có bách khoa tính, thực dụng tính và lãnh đạo tính, biến cậu bé khôi ngô tuấn tú, thông minh khác thường thành một người tài đức vẹn toàn, một công dân gương mẫu, một vị tướng trung dũng, đồng thời thấm nhuần chánh pháp để có thể trở thành một vị quân vương bồ tát, trị quốc an dân theo chánh pháp.
B. Xây dựng triều đại nhà Lý
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước có triều đại nhà Đinh (968-980) và triều đại Lê Đại Hành (980-1005), nhưng vì sự nghiệp quá ngắn, do sự phá nát của vua Lê Long Đĩnh (1005-1009) cho nên bắt buộc phải có một sự đổi thay cho vận mệnh đất nước và dân tộc. Để đưa đất nước trở thành phú cường và an cư lạc nghiệp của quốc gia dân tộc, và chính từ đó là một động cơ thúc đẩy để đưa Lý Cong Uẩn lên nắm quyền. Mối quan hệ giữa thiền sư Vạn Hạnh và Lý Công Uẩn là quan hệ tình thầy trò.
        Trước những biến động nguy ngập của thời đại, sự xuất hiện của Vạn Hạnh như một vị cứu tinh vĩ đại cho Dân Tộc, để phục hưng quốc gia, bảo vệ tinh thần đạo đức của dân tộc, là một sự xắp xếp chính trị rất khéo léo của thiền sư Vạn Hạnh. Chính triều đại đã mang lại cho Việt Nam một kiến trúc văn hóa, chính trị, hành chính, quân đội độc lập, thống nhất vững chắc và hùng mạnh, một triều đại đã tái tạo một đất nước Việt Nam đã bị tàn phá, hủy diệt trong suốt hơn 10 thế kỷ nô lệ cho đế quốc Trung Hoa, một triều đại đầu tiên đưa dân tộc tiến về phương Nam, chuyển mình tung hoành trên bán đảo Hoa Ấn sau khi bị đế quốc phương Bắc kềm kẹp, giam hãm trên vùng châu thổ sông Hồng hơn 1000 năm. Và cũng là một triều đại đầu tiê  trong lịch sử Việt Nam đã thực hiện rất nhiều công nghiệp lớn láo để bảo vệ và xây dựng quốc gia độc lập, hòa bình, thống nhất, nhân bản và hùng mạnh về mọi mặt. 
          Vạn Hạnh thiền sự là linh hồn của công cuộc cách mạng đưa Lý Công Uẩn lên ngôi. Ngài đã đào tạo Lý Công Uẩn ngay từ lúc còn làm chú tiểu ở chùa làng Cổ Pháp, để sau nầy trở thành một vị vua anh minh làm tròn sứ mạng cao cả cho Dân Tộc. Nhờ sự giáo dục tài tình của Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn đã huân tập được tinh thần Từ Bi, Trí Tuệ trong Phật Giáo, đặt sự tồn tại của Dân Tộc lên trên, xây dựng một xã hội nhân bản, hưng thịnh, an lạc. Sử gia Hoàng Xuân Hãn viết “Triều đại nhà Lý là Triều đại thuần nhất trong lịch sử nước ta. Đó là nhờ ảnh hưởng của Phật giáo”. Điều nầy cũng đủ cho ta thấy rằng đóng góp của Vạn Hạnh Thiền sư vô cùng vĩ đại, sự nghiệp phi thường nầy chắc hẳn chúng ta không bao giờ quên được.
          Ngày mà Lý Công Uẩn (1009-1225) lên ngôi Vua, Vạn Hạnh thiền sư ung dung ngồi ở Chùa Lục Tổ, bên cạnh chén trà, mỉm cười với chính mình, một nụ cười chìm lặng trong hư vô, chỉ có hư không mới cảm nhận thâm sâu được nụ cười nầy. Vạn Hạnh thiền sư đâu cần thiên hạ tung hô, dù rằng ngài lãnh đạo và phát huy kế hoạch vi diệu trong việc tạo dựng nên nhà Lý. Cái ung dung thanh thoát của những con người không hề vướng bận, làm thì có làm, vì chúng sanh nên phải dấn thân, nhưng không vì thế hoen ố được tâm linh của mình.
Cho nên qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê và dưới thời Bắc thuộc về trước dân trí được mở mang chỉ dựa vào các đạo mà đạo Phật lại hưng thịnh vào triều Lý, còn thời trước đó, các đạo đều chưa giúp cho nền giáo dục của đất nước đào tạo người tài đức. Do đó, các tu sĩ Phật giáo được xã hội trọng vọng, trong đó có các vua thuộc các triều đại trước. Huống hồ, lớp tăng sĩ Phật giáo lại nổi trội trong triều đình về mặt tri thức và đạo đức, lễ nghĩa và chính vì thế mà lực lượng nòng cốt cho sự thay vua đổi triều là các thiền sư. Ở đây, còn có yếu tố Lý Công Uẩn là con nuôi của nhà sư Lý Khánh Vân (hay Lý Tự Khanh) ở chùa Cổ Pháp, người vừa có học lại vừa có thân thế và quyền lực trong triều lúc bấy giờ. Đó còn là lý do khiến cho thiền sư Vạn Hạnh và các nhà sư thuộc cánh Phật giáo thời ấy ủng hộ cho sự thay đổi triều đại.
Lúc đó, trong nhân dân lưu truyền bài sấm mà người ta cho là của thiền sư Vạn Hạnh làm ra để cho thấy họ Lý lên thay họ Lê là hợp lòng trời:
"Cội Lê trầm Bắc thủy 
Lý tử thụ Nam thiên 
Tứ phương can qua tĩnh 
Bát biếu hạ bình an".
Dịch nghĩa:
Gốc Lê chìm biển Bắc 
Chồi Lý mọc trời Nam 
Bốn phương tan giáo mác 
Tám cõi được bình an.
Đúng như lời thơ, năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua lấy niên hiệu Thuận Thiên (Tuân theo ý trời hay Hợp lòng trời). Thấm nhuần Phật học, trông rộng nhìn xa và khắc sâu lời giảng dạy của Quốc sư Vạn Hạnh, vua Lý Thái Tổ quyết định dời kinh đô Hoa Lư ra thành Đại La đang nằm ở vị trí có ưu thế hợp với thuyết phong thủy và có nhiều vượng khí về sau ngày càng phát triển xứng đáng với tầm vóc của một kinh đô Đại Việt. Trước đó, vua đã tự thảo ra tờ Chiếu để hỏi ý kiến quần thần và Quốc Sư. Được sự đồng tâm nhất trí của cả triều đình và của cả nhân dân trăm họ, chỉ một năm sau khi lên ngôi, Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư vào mùa thu năm Canh Tuất (1010). Khi ra đến La Thành, vua cho là đã nhìn thấy rồng vàng hiện ra nên đổi tên thành Đại La ra thành Thăng Long (nay là thủ đô Hà Nội) mở đầu kỷ nguyên mới cho nước Đại Việt. 

II. Nền triết lý tâm linh đặc thù của dân tộc. 
          Đứng trước vực thẳm của Dân Tộc đang bị lôi cuốn vào những trào lưu văn hóa của ngoại lai, phi dân tộc, do sự đồng hóa thống trị đô hộ của đế quốc Trung Hoa biến Dân Tộc rơi vào sự khống chế, khắc nghiệt, tàn bạo về mọi phương diện. Và thâm độc hơn để đồng hóa người dân đến tận gốc rễ. Vào thời bấy giờ là nơi gặp gỡ nhiều trào lưu văn hóa và tín ngưỡng khác nhau như: Văn hóa “Động Cổ” (Đông Sơn) Văn Hóa Cổ Mộ (Lạch Trường) văn hóa Hán nho, Phật học v.v… Trước những dị biệt đó, muốn trưởng thành chắc chắn phải hóa giải những mâu thuẫn, thanh lọc lại và tạo nên một trào lưu văn hóa khác không chấp nhận lệ thuộc hẳn vào một văn hóa nào cả. Đứng trước thảm trạng bi hùng đó, Vạn Hạnh thiền sư đã ý thức mãnh liệt về Dân Tộc tính, tạo dựng nên một nền tâm linh đặc thù cho Dân Tộc, tổng hợp những trào lưu văn hóa, thay vào đó mang một đặc thể hoàn toàn Dân Tộc.
          Theo sử gia Lê Văn Siêu nói rằng: “Thiền sư Vạn Hạnh người đã sáng tạo ra và cho lưu truyền trong nhân gian huyền thoại rồng tiên và nguồn gốc họ Hồng Bàng, còn là Việt Đạo”. Sử gia Lê Văn Siêu viết “Qua câu chuyện huyền thoại về nguồn gốc Dân Tộc, ta thấy ở đấy cũng một mùi đạo hạnh uyên thâm cũng một giọng kín đáo mà thuần phác, cũng một ý răn dạy luân lý để nghiền ngẫm cho từ vua quan đến thứ dân, cũng một tinh thần xây dựng về lâu đài cho muôn thuở, cũng một trình độ lĩnh hội và tổng hợp của cả ba đạo Nho- Phật- Lão, và cũng một ý thức sáng tạo lớn là để phụng sự cho Dân Tộc.
          Những tổng hợp tư tưởng của Vạn Hạnh thiền sư còn đi xa hơn Khổng Tử tìm ra cái “Đạo Nhất Quán” vì Khổng Tử chỉ dùng có suy tư và học tập mà không qua chặng đường thực nghiệm siêu thể như ngài được. Và chặng đường để ngài thực hiện được còn gay cấn và độc đáo hơn nhiều. Không những không bị đồng hóa lệ thuộc, mà còn vượt lên trên. Vạn Hạnh thiền sư là người đã dựng nên một nền Minh Triết Việt Đạo độc đáo cho Dân Việt, đánh tan đi ảnh hưởng của ngoại lai. Sau khi Vạn Hạnh đã thẩm định lại một cách rõ ràng bằng con đường trực giác kiến tánh, siêu việt lên trên mọi hiện tượng, thực nghiệm những tương quan bằng con mắt trí tuệ sáng soi. Chỉ có điều nầy mới không tạo nên những xung khắc trong việc quân bình.
          Tuy nhiên trong quan niệm nguồn gốc họ Hồng Bàng ta còn nhận thấy một dụng ý chính trị cao siêu là gây cho Dân Tộc niềm kiêu hãnh về nguồn gốc của mình, phá bỏ mặc cảm tự ti đối với Trung Hoa. Người Tàu nói có nguồn gốc từ Tam Hoàng, Ngũ Đế thì đây ta cũng có gốc gác từ vua Thần Nông, cha đẻ của nền văn minh nông nghiệp. Người Tàu nói giòng dõi của họ là con rồng (thuần dương) thì ta giòng dõi Rồng Tiên (vừa âm vừa dương) chẳng cao siêu hơn và tròn đầy hơn sao? Trong lòng người, lòng sông núi, trong tâm thức và phong thái Việt Nam và chính trong những lúc nguy ngập, trong những cơn quốc nạn, trong những giai đoạn máu lửa, trong những cuộc thử thách mất còn mà cái đạo nhiệm mầu, siêu việt, tròn đầy ấy lại hiện ra sáng đẹp như chưa bao giờ sáng đẹp hơn và linh diệu không thể nào lường được. Cái đạo ấy thể hiện gói trọn trong huyền thoại Tiên Rồng và huyền thoại Hồng Bàng xứng đáng được gọi là đạo Tiên Rồng đạo Hồng Bàng hay Việt Đạo.” 
          Cái đạo ấy tuy thoát thai ở Nho, Phật, Lão… Nhưng nó đã nhuốm một màu sắc Việt Nam. Nó đã được un đúc qua một cuộc thử thách lịch sử dài tới hơn một ngàn năm. Nó có một nội dung tròn đầy, phóng khoáng và siêu thoát nhưng cũng thiết thực, cụ thể, bình dân. Nó khoác một hình thái biến hóa khôn lường, hư hư, thực thực. Nó vô vi mà là hữu vi, hữu vi mà là vô vi, tranh đấu tích cực mà như là tiêu cực, tiêu cực mà thật là tích cực. Không phải là chiến để thắng mà là hòa để thắng, không phải thắng trong một ngày, một buổi, mà là thắng cho muôn đời về sau.
          Chúng ta có thể nói Vạn Hạnh thiền sư đã đào tạo con người Lý Công Uẩn bằng tinh thần Phật giáo và đem tinh thần ấy hiện thực trong đời sống xã hội, bằng phương pháp Huân tập cho con người của Lý Công Uẩn thâm nhập tư tưởng của chính Ngài. Vạn Hạnh thiền sư đã nhập thế gánh vác việc nước một cách tài tình, làm một công việc thay đổi vua chúa không đổ một giọt máu của nhân dân thể hiện Đại bi một cách mãnh liệt song song với Đại hùng, Đại lực được toát ra bằng cuộc vận động âm ỉ trong lòng dân tộc, một vị vua vô đạo và một con người chân chính đáng trị vì thiên hạ.
          Trong Sử  sách và thế gian chỉ ghi rằng Lý Công  Uẩn lên làm vua, Đào Cam Mộc dẹp  yên các phe phái trong triều đình và  quần chúng ủng hộ cuộc cách mạng.  Còn Thiền Sư Vạn Hạnh, người như hạc vàng, đã bay vào vô tận, không để lại dấu vết, hình tướng, chỉ để lại hương thơm muôn thuở trong lòng người và lòng dân tộc.  Không những đối với cuộc cách  mạng năm 1009, và đối vớt tất  cả sự nghiệp vĩ đại khác mà  Thiền Sư Vạn Hạnh đã làm như  dời kinh đô từ Hoa Lư ra Thăng  Long, kiến thiết kinh thành Thăng Long..., Thiền  Sư đều làm với tinh thần vô kỷ, vô công, vô danh và vô hành. Giúp  dân dựng nước hay hoằng pháp  độ sanh, Thiền Sư đều làm một cách bình dị, tự nhiên như uống trà, cuốc đất, thở ra, thở vào, nằm, ngồi, đi, đứng. Đây là một cuộc cách mạng vô tiền khoáng hậu của lịch sử dân tộc nói riêng và kể cả nhân loại nói chung, một cuộc cách mạng mà sự chuyển giao quyền lực giữa 2 triều đại rất ôn hòa và tốt đẹp trong sự tôn trọng,  kính ngưỡng của cả hai.
          Thiền sư Vạn Hạnh là hiện thân của biểu tượng cho sự nghiệp kỳ vĩ của Phật giáo Việt trong lòng quốc gia Việt. Khai sinh ra một xã hội Đức trị : “ Triều đại nhà Lý là triều đại thuần từ nhất trong lịch sử nước ta. Đó là nhờ ảnh hưởng Phật giáo ” . Một triều đại kéo dài trên 215 năm ( từ 1010 – 1225 ) không những là triều đại thuần từ nhất, mà còn là một triều đại có công nhất trong lịch sử dân tộc.
          Vì vậy ngày nay nói đến Thiền Sư Vạn Hạnh, người ta thuòng nhớ tới bài thơ tán dương của Vua Lý Nhân Tông, người lãnh đạo quốc gia, đại diện cho Đời, đối với Thiền sư Vạn Hạnh, người đại diện cho đạo:
“Vạn Hạnh dung tam tế,
Chân phù cổ sấm thi,
Hương quan danh Cổ Pháp,
Trụ tích trần vương kỳ.”
Dịch nghĩa:
Vạn Hạnh thông ba cõi,
Lời ông nghiệm sấm thi.
Quê hương làng Cổ pháp,
Chống gậy trấn kinh kỳ. [30, 432-433]
Hình ảnh  nhà sư chống gậy giữ gìn đất nước đã nói lên mối quan hệ chặt chẽ giữa tôn giáo với quốc gia dân tộc,  giữa nhà chùa với Tổ quốc. Nhà sư nhập thế giúp đời là một hình ảnh đẹp, chứng tỏ bấy giờ đạo gắn liền với đời và Phật pháp với dân tộc, với đất  nước không thể phân ly. Thời ấy, có rất nhiều nhà sư đã có những hành động cao cả, xả thân vì đất nước như thế.
          Qua thời đại nhà Lý từ bi, nhân bản và nhân chủ đức trị, qua thành Thăng Long, qua huyền thoại Rồng Tiên và huyền thoại Hồng Bàng, đâu đâu ta cũng thấy bóng dáng siêu thoát, kỳ vĩ của Thiền Sư vạn Hạnh. Chính Thiền Sư Vạn Hạnh đã hoàn thành sự  nghiệp Việt Nam một cách quy mô nhất, toàn diện nhất, ở mức độ  cao đẹp nhất, bao trùm nhất. Sự nghiệp của Thiền Sư Vạn Hạnh không phải là sự nghiệp của Phật Giáo Việt Nam, mà còn là chính sự nghiệp Việt Nam. Thiền Sư Vạn Hạnh qua những công nghiệp phi thường nầy, đã không làm cho riêng mình, đã làm cho Phật Giáo và đã làm tất cả cho dân tộc Việt Nam.
Với ngọn đuốc trí tuệ đó Đức Phật đã thắp lên từ hơn 25 thế kỷ qua vẫn tiếp tục soi sáng cho chúng ta ngày nay. Để tiếp nối hạnh nguyện cao cả của Đức Phật, Vạn Hạnh Thiền sư đã sống và hành động theo lời dạy của Đức Phật:
“Này chư Tỳ Kheo ! Hãy du hành vì lợi ích, vì an lạc, vì hạnh phúc cho chư thiên và loài người”. Đồng thời, ngài đã cụ thể hóa lời dạy của Đức Phật trong đời sống.  Ngài đã đến với cuộc đời một cách tự tại, vì lợi ích cho đất nước, cho con người, không vì vụ lợi riêng tư mà bằng tinh thần “Vô ngã vị tha”, kết hợp với tinh thần nhân bản, bằng giáo lý từ, bi, hỷ, xả, hài hoà tinh thần yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc, làm nên một tư tưởng sống “phụng sự” đạo pháp- dân tộc và chúng sanh.
          Vì vậy, bất cứ người Việt nào, khi đọc lại những trang sử nước nhà, không ai không tự hào về đất nước mình, đất nước đã sản sinh ra những vị Thiền sư, hy sinh lợi ích cá nhân, hòa nhập vào lợi ích chung của đất nước, sẵn sàng xả thân khi  đất nước lâm nguy. Và khi xong việc, các Ngài thong dong tự tại quay gót trở về với núi rừng sơn thủy, chọn am tranh làm chốn tu hành. Song, ở nơi đây, những con người ấy không chỉ chuyên lo tu Thiền mà lại một lần nữa các vị đã đóng góp rất nhiều cho nền văn học Việt Nam, với những áng thơ Thiền bất hủ. Vì thế, có thể nói mỗi Thiền sư là một thi nhân. Thông qua tác phẩm của mình, các vị đã gởi gấm tâm tư, những trải nghiệm qúy báu trong quá trình tu tập.
III. Kết luận
          Có thể nói, thời Lý là thời của Phật giáo, cũng vì thế mà nhân tài Phật giáo thời Lý nở rộ. Những bậc đạo sư tài năng, đức độ, trí tuệ, thông hiểu đạo đời xuất hiện đông đảo đã làm cho chốn thiền lâm nơi mảnh đất Đại Việt thực sự trở thành trung tâm của Phật giáo như đã có hàng ngàn năm về trước. Điều đó có được cũng chính là bởi, Phật giáo thời Lý đã phát huy tinh thần khế lý, khế cơ Đức Phật, dấn thân vào các hoạt động xã hội, tham gia triều chính, yểm trợ chính quyền, hoằng dương Phật pháp, tiếp độ chúng sinh. Phật giáo không coi mình bên ngoài chính sự, Phật giáo không lợi dụng sự tôn kính của các bậc quân vương đối với tôn giáo mình để bài xích, loại trừ các tôn giáo khác, Phật giáo cũng không dùng cách thức hành xử cực đoan đề độc tôn, đề cao mình, mà trái lại, bằng trí tuệ uyên thâm, sâu sắc, bằng tinh thần từ bi, hỷ xả, Phật giáo luôn dung hòa các mối quan hệ, luôn đề cao và phát huy tinh thần đoàn kết, gắn bó và coi đó là tiêu chí cho sự phát triển ổn định, bền vững và lâu dài.
          Một điều nữa chúng ta cũng cần phải nói đến là ngay bản thân chính các vị vua nhà Lý cũng những Phật tử rất thuần thành. Ngoài việc điều hành đất nước theo thiên chức của đấng thiên tử, các vua nhà Lý cũng dành thời gian cho việc tham cứu giáo lý Phật đà, và hơn thế nữa, họ còn là những bậc anh tú vườn thiền. Khi quốc gia cần người trị vì, đứng đầu cai quản, làm hết chức trách và bổn phận, khi đất nước thái bình thịnh trị họ trở về với niềm vui trong Phật pháp. Trong Thiền uyển tập anh còn ghi rõ Hoàng Đế Lý Thái Tông là truyền thừa thế hệ thứ bảy của phái Vô Ngôn Thông, Hoàng đế Lý Thánh Tông là truyền thừa thế hệ thứ nhất của phái Thảo Đường; Hoàng đế Lý Anh Tông là truyền thừa thế hệ thứ ba của phái Thảo Đường và Hoàng đế Lý Cao Tông là truyền thừa thế hệ thứ năm của thiền phái Thảo Đường. Với những vai trò như thế, rõ ràng, với các vị vua nhà Lý, Phật giáo không chỉ là cứu cánh là trợ duyên để họ đạt đến vương quyền, mà hơn thế, đạo Phật đã trở thành niềm vui, thành ý nghĩa trong cuộc sống, và đó cũng là điều dễ hiểu khiến Phật giáo thời lý hưng thịnh và phát triển. Chính tinh thần hòa nhập nhuần nhuyễn của Phật giáo trong đời sống của người dân Việt đã tạo thành mô hình Phật giáo Việt Nam có sắc thái độc đáo, tràn đầy sức sống. Trí tuệ và công sức của hàng đệ tử Phật còn lưu dấu ấn son sắt trên những trang sử oai hùng với nhiều thành quả bảo vệ đất nước một cách thần kỳ. Đặc biệt, giới Phật giáo cũng góp phần đáng kể qua những tác phẩm văn thơ, làm sáng danh nền văn học Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn khá dài.
          Thâm nhập giáo lý nhà Phật qua chính sách an dân trị nước nên các vua Lý đã chinh phục trái tim, khối óc con người bằng đức trị thay pháp trị. Đạo đức vô ngã đã tạo cho con người một cuộc sống hòa hợp, giản dị nhưng tạo lực tác động mạnh mẽ vô cùng. Tinh thần tích cực nhập thế là một truyền thống lớn của Phật giáo ở nước ta. Quan điểm triết học của thiền sư Vạn Hạnh và cách hành xử của ngài đối với chính trị, xã hội thời Tiền Lê và đầu nhà Lý cho thấy rõ tinh thần tích cực nhập thế của Phật giáo Việt Nam. Với tinh thần ấy, Phật giáo Việt Nam luôn luôn đồng hành với dân tộc Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước...
          Muốn đất nước thái bình, thịnh trị. Chính nơi bản thân các vua đã tự trau dồi bằng đạo đức vị tha, triết lý sống nhập thế trên tinh thần từ, bi, hỷ, xả của đạo Phật. Các vua không ngừng học hỏi, tu tập cho đến khi thấu rõ giáo lý Phật Đà, góp phần tạo một sức sống mạnh mẽ, không khép kín mà phổ biến khắp nơi trong dân chúng, khiến họ cùng học tập theo và sống đúng. Một đời sống hướng thượng, hướng con người đến chân – thiện – mỹ và đạt được chân lý ngay trong đời sống thực tại này chứ không phải nơi một thế giới xa xăm nào khác. Đạo Phật đã tạo cho dân tộc Việt Nam đương thời một niềm tin mạnh mẽ vào tự lực, vào khả năng trong sáng thuần khiết của bản thân để sống đúng và sống đẹp theo tinh thần Chánh kiến, Chánh tư duy và Chánh mạng. Đây chính là nguyên nhân làm cho triều đại nhà Lý phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử với những chiến công vẻ vang và sự thành tựu to lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa. Chính đạo Phật đã chan hòa vào lòng dân tộc góp phần hình thành một quan niệm, một lối sống tích cực, hữu ích cho con người và cho cuộc sống.
          Tóm lại, tính độc đáo và sáng tạo của Phật giáo nhà Lý chính là ở chỗ luôn luôn chủ động gạn lọc, tiếp thu cái hay, gạt bỏ cái dở, từ đó sáng tạo ra một xã hội thường xuyên đổi mới, trẻ trung, cập nhật với thời thế, có nhiều sinh khí. Đó là điểm nổi bật nhất của Phật giáo thời Lý. Các vua trị vì đã thực sự thấm nhuần lời dạy của đức Phật trong kinh Trường A Hàm: “Biết đoàn kết, biết ăn ở hòa hảo cùng nhau và thường hội họp nhau lại để lo bàn việc nước thì không sợ gì sẽ bại vong mà nhất định sẽ được cường thịnh, phong phú thêm”. Đây là những nhân tố tư tưởng góp phần tích cực vào sự tồn tại lâu dài của  triều đại Lý
Tư liệu tham khảo
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất 
bản Khoa học Xã hội, 1998, bản in Nội các quan bản, trang 242.
2. Sđd, trang 240
3. Đình Bảng, Bắc Ninh ngày nay.
4. Ba học tức là giới định tuệ trong 
quan điểm tu học của Phật giáo
5. Trăm luận tức là bách gia chư tử 
theo truyền thống Nho học
6. Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về
Thiền uyển tập anh, Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1999
7. Sđd, trang 266
8. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất 
bản Khoa học Xã hội, 1998, bản in Nội các quan bản, trang 240
9. Sđd trang 238
10. Tật Lê chìm bể Bắc
Hạt Lý mọc trời Nam
Bốn phương gươm giáo dẹp
Tám cõi mừng bình an
11. Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về 
Thiền uyển tập anh, Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, trang 268
12. Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về 
Thiền uyển tập anh, Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, trang 301
13. Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về 
Thiền uyển tập anh, Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, trang 206
14. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất 
bản Khoa học Xã hội, 1998, bản in Nội các quan bản, trang 250

          

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

test banner