LỄ NGHI VÀ CUỘC SỐNG THEO LỄ
Th.s Thích Thiện Hạnh
Lễ biểu hiện nhân cách con người, nếu lễ biểu hiện cuộc sống xã hội của con người, và nếu lễ là những phương cách kiềm chế và giáo hóa con người trong Nho giáo, thì trong lối sống Việt, lễ còn quan trọng hơn cả thế nữa.
Lễ hiện thực tất cả cuộc sống. Lễ biểu tả cả một thế giới sống Việt. Chính vì vậy mà lễ được dùng như là sinh hoạt mang tính chất toàn diện, cũng như cao cả nhất như từng biểu hiện trong ngôn ngữ, sinh hoạt tôn giáo, và trong cách tổ chức xã hội.
Lễ hiện thực tất cả cuộc sống. Lễ biểu tả cả một thế giới sống Việt. Chính vì vậy mà lễ được dùng như là sinh hoạt mang tính chất toàn diện, cũng như cao cả nhất như từng biểu hiện trong ngôn ngữ, sinh hoạt tôn giáo, và trong cách tổ chức xã hội.
Trong ngôn ngữ Việt, lễ hiển diện một cách rõ rệt, hơn bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới. Lối xưng hô với cùng một người luôn thay đổi tùy theo địa vị, tùy theo liên hệ, tùy theo sự cách biệt, tùy theo tầm quan trọng. Lối xưng hô như vậy là một ví dụ điển hình ngôn ngữ Việt dựa theo lễ: với một người không quen, ta có thể xưng với người đó: thưa, bẩm, nói với… cụ, ông, bác, chú, ngài, cậu, mày, vân vân. Với một người mà ta kính trọng, lễ đòi buộc phải tôn kính hơn: kính thưa, trọng kính đức (đức ông), cụ, ngài. Trong ngôn ngữ tôn giáo, ta dùng những động từ như: kính, bái, vái, lạy, thờ, quỳ lạy, phủ phục, vân vân. Rồi đối với thánh nhân, thần linh, và ngay ma qủy chúng ta cũng có những ngôn ngữ khác nhau để biểu tả cái lễ (tâm tình) của mình.
Lối xưng tụng “Đức” biểu tả cái lễ ta dành cho những vĩ nhân, những đại anh hùng dân tộc, và đặc biệt cho các bậc Giáo chủ và thần thánh. Trong xã hội Việt, từ “Đức” chỉ dành riêng xưng tụng thần thánh, các nhà lãnh đạo tôn giáo, hay những bậc thánh nhân, những vị anh hùng, những đại triết gia mà thôi. Ví dụ Đức Khổng, Đức Phật, Đức Kitô, Đức Bà, Đức Mẹ, Đức Chúa, Đức Trần Hưng Đạo (Thánh Trần), Đức Giáo Hoàng, vân vân.
Nếu trong ngôn ngữ, chữ lễ giữ một tầm quan trọng như vậy, thì trong chính sinh hoạt tôn giáo, nó càng rõ rệt hơn. Trong tất cả các đạo giáo ở Việt Nam, từ những đạo giáo du nhập từ ngoại quốc như Phật, Khổng, Lão và Thiên Chúa giáo cho tới những tôn giáo được coi như là thuần túy dân tộc như đạo Dân Gian, đạo Thờ Ông Bà, và gần đây, hai đạo Cao Đài, Hòa Hảo, ta thấy lễ mang một vai trò quan trọng khác thường, mang tính chất toàn diện và siêu nhiên: lễ chỉ những buổi hội họp quan trọng để tưởng nhớ, để mừng vui, để nhận nhau, để cổ võ, để hiệp thông, và để hướng về tương lai.
Lễ cũng nói lên những hành vi mà người Việt theo và giữ, để ứng xử với Trời, Đất và đồng loại, tùy theo tôn ti trật tự (nghi lễ). Lễ càng chỉ ra những cách thế, những quy luật, những “tục”, những “tắc”, những “quán”, tức những phương thế hữu hiệu, những cách thế dân tộc được truyền qua bao thế hệ. Và lẽ dĩ nhiên, lễ với nghĩa nói lên cái nhân cách của con người “đỉnh thiên lập địa”, khiến con người đồng hàng với Trời, với Đất.
Lễ nơi đây không chỉ là lễ nghi, hay nghi thức phụng vụ, mà phải là lễ nghĩa, tức chính cuộc sống của con người đối với Thượng Đế qua ngôn ngữ, hành vi, phẩm phục, hay qua những nghi thức. Tương tự, lễ đã biến thành một phần bất khả phân li trong cuộc sống của Phật giáo đồ. Phật giáo đồ lễ (bái, tế) Phật. Họ có những buổi lễ như lễ Vu Lan, lễ Phật đản, và nhiều lễ tương tự. Lễ đối với họ nói lên việc họ sống chính cuộc sống của mình bằng cách hợp nhất với tinh thần của đức Phật. Và quả thật, Công giáo hay Phật giáo Việt đã phản ảnh lối sống của họ trong hành vi lễ, bái, kính, tôn. Bái (xá) tổ tiên, làm lễ giỗ tổ, thờ kính ông bà, bái những bậc tiền bối, vân vân, tuy vốn không hợp với nghi thức hay luật phụng vụ của Kitô giáo và có lẽ cả của Phật giáo, chúng lại phản ánh trung thực cái tinh thần đúng lễ của các đạo giáo trên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét