Mùa xuân đến với dân tộc, Bắc có hoa đào thắm, Nam có hoa mai vàng. Hoa mai thể hiện khí tiết thanh cao của người quân tử, thì hoa đào lại tượng trưng cho tấm lòng của bậc nữ nhi son sắt.
MÙA XUÂN ĐẾN
HOA MAI- ĐÀO NỞ LẠI LÀM ĐẸP CHO ĐỜI
“Mùa xuân hội tụ; Niềm vui, nụ cười
Đào, Mai nở rộ; Đẹp hai phương trời”.
Cứ mỗi độ xuân về , trăm hoa đua nở, sắc xuân rực rỡ muôn màu muôn vẻ, những đoá hoa như khoe sắc cùng xuân, không gian bao trùm một vẻ tươi tốt tràn ngập sức sống. Người người ngắm nhìn cảnh xuân với muôn nghìn tâm trạng. Trong cái nhìn của người con Phật đứng trước cảnh sắc xinh đẹp của mùa xuân dẫu biết tất cả là mộng là huyễn thế nhưng cũng không khỏi thoáng chút xao xuyến cũng như có những cái cảm nhận mới lạ khác thường.
Mùa xuân đến với dân tộc, Bắc có hoa đào thắm, Nam có hoa mai vàng. Hoa mai thể hiện khí tiết thanh cao của người quân tử, thì hoa đào lại tượng trưng cho tấm lòng của bậc nữ nhi son sắt. Hoa mai thể hiện sự kiên cường mạnh mẽ, thì hoa đào lại thể hiện một cách mềm mại thướt tha; Hoa mai quyền quý cao sang, thì hoa đào lại dịu dàng đằm thắm; Hoa mai cười rạng rỡ trong nắng xuân, hoa đào lại là đôi môi hồng e ấp. Hai thứ hoa, hai cốt cách, hai phương trời, cũng là hai sắc màu xuân sang.
Màu vàng của hoa mai từ lâu được xem là màu tượng trưng cho sự giàu sang, phú quý. Người ta chưng hoa mai vào dịp Tết với mong muốn một năm mới phát tài, giàu sang. Theo quan niệm của nhiều người, nhà nào có hoa mai nở càng nhiều cánh thì nhà đó càng may mắn và sung túc trong năm mới.
Đối với nhiều người, hoa đào cũng giống như một người con gái miền Bắc đẹp dịu dàng, đằm thắm mà quyến rũ vô cùng, và còn tượng trưng cho sự tinh tế, sang trọng và thuỷ chung. Ngoài ra, hoa đào còn là biểu tượng cho sự đổi mới, sự sinh sôi, phát triển mạnh mẽ, và còn mang đến nguồn sinh khí mới, giúp mọi người trong nhà luôn khỏe mạnh, bình an và vạn sự như ý trong năm mới. Hoa Đào nở vào mùa xuân còn biểu trưng cho sự may mắn, hạnh phúc, tình bạn thân thiết và tình yêu. Trang trí một cành đào đẹp trong nhà hay gửi tặng người thân, bạn bè một cành đào thắm là lời chúc tuyệt vời nhất mà chúng ta muốn gửi đến mọi người trong năm mới.
Nguyên âm
“Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.”
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.”
dịch nghĩa (Trần trọng Kim)
Hôm nay, năm ngoái, cửa cài,
Hoa đào ánh với mặt người đỏ tươi.
Mặt người chẳng biết đâu rồi,
Hoa đào còn đó vẫn cười gió đông.
Hoa đào ánh với mặt người đỏ tươi.
Mặt người chẳng biết đâu rồi,
Hoa đào còn đó vẫn cười gió đông.
Hoa đào rất đẹp! đẹp từ khi đào mới kết nụ, đơm bông, cho tới khi hoa nở, thậm chí hoa tàn vẫn đẹp đến nao lòng. Ngắm những nụ đào còn chúm chím trên cành, sẽ thấy nét mơ màng e lệ của nàng Xuân. Rồi khi hoa mãn khai nhuộm thắm một góc trời, đôi chân sẽ lạc bước vào tiên cảnh. Hoa tàn hoa rụng lại càng đẹp và mộng mơ hơn nữa. Đó là “đào hoa lưu thủy”, trôi theo dòng nước; hay là hình ảnh cánh hoa nương theo làn gió, bay lả tả khắp không gian; hoặc cũng có thể là phơn phớt cánh đào trải thảm hồng trên nền cỏ biếc. Như trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du miêu tả mối tình đầu của Kim Trọng và Thúy Kiều luôn thấp thoáng bóng hoa đào. Đến khi chàng Kim phải về Liêu Dương thụ tang người chú, sau nửa năm xa vắng, chàng trở lại vườn Thúy thì mọi vật đều đã đổi thay. Người xưa không còn nữa, chỉ thấy:
“Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”.
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”.
Người nhớ cảnh, cảnh nhớ người, đúng một năm sau trong tiết thanh minh, chàng Thôi trở lại chốn cũ nhưng chỉ thấy cửa đóng then cài, người xưa không biết ở chốn nao, mặc cho ngàn hoa vẫn rực rỡ. Thế nên, thi nhân xưa thấy hoa rơi mà lòng đau nhói: “Thủy hoa lưu tạ lưỡng vô tình” (nước chảy, hoa tàn, cả hai cùng vô tình), lại thấy: “Lạc hoa hữu ý tùy lưu thủy. Lưu thủy vô tình luyến lạc hoa” (Hoa rơi hữu ý theo nước chảy. Nước chảy vô tình cuốn hoa trôi). Kiếp hoa cũng giống như kiếp người, thoát sao được vòng quay của sinh – lão – bệnh – tử? Con người là “sinh – lão – bệnh – tử”, Thiên Địa là “thành – trụ – hoại – diệt”. Cho nên, ngắm hoa mà ngẫm đến kiếp người, suy ngẫm về đời người mà nhận ra quy luật của thiên nhiên vạn vật, cũng là quy luật bất biến vĩnh hằng của tạo hóa. Có người ngắm hoa đào mà say sưa giấc mộng hồng (chìm trong cõi mê), lại có người ngắm hoa đào mà bừng ngộ, thấu triệt Pháp lý vần xoay của vũ trụ (tỉnh thức, thoát khỏi cõi mê).
Cho nên ngài Thiền sư Linh Vân tu đạo trên núi, ngài đã 30 năm cần mẫn tu hành nhưng vẫn chưa thật sự đắc Đạo. Ngày hôm nay ngồi tham thiền trong rừng đào, một cơn gió thổi đến khiến những cánh hoa vương đầy trên mặt đất, ngài bỗng ngộ ra chân Pháp chân Đạo từ những cánh đào rơi.
“Tam thập niên lai tầm kiếm khách.
Kỉ hồi lạc diệp kỉ trừu chi.
Tự tòng nhất kiến đào hoa hậu.
Trực đáo như kim bất cánh nghi”.
Kỉ hồi lạc diệp kỉ trừu chi.
Tự tòng nhất kiến đào hoa hậu.
Trực đáo như kim bất cánh nghi”.
Dịch:
Ba chục năm qua tầm kiếm khách
Bao lần lá rụng với cành trô
Từ khi được thấy hoa đào rụng
Cho đến ngày nay chẳng chút ngờ
Bao lần lá rụng với cành trô
Từ khi được thấy hoa đào rụng
Cho đến ngày nay chẳng chút ngờ
Người thường là say trong sắc hoa, hương hoa, tình hoa, mà ảo tưởng về cuộc sống phồn hoa giả tạm nơi trần thế. Nhưng kiếp người chỉ có trăm năm, dẫu là công tử vương tôn quyền quý, là anh hùng hào hoa tuấn kiệt, hay là phận nữ nhi yểu điệu, làm bóng hồng lưu luyến trong trái tim ai… thì cuối cùng, hết thảy đều trở về cát bụi! Hoa đẹp đến mấy cũng phải héo tàn, người đẹp đến mấy cũng phải đến lúc già nua, những gì là oanh oanh liệt liệt, vẻ vang lừng lẫy, rồi cũng đến lúc trở thành dĩ vãng. Kiếp người này là giả tạm đến thế, phù du đến thế, hư ảo đến thế, sao bằng buông bỏ tất cả những thứ phồn hoa giả tạm ấy để trở về với Phật Pháp vĩnh hằng? Vì lẽ đó mà những bậc chân tu như Linh Vân thiền sư, chỉ thấy hoa đào rơi mà bừng ngộ. Lẽ dĩ nhiên, không phải ai ai cũng trở thành thiền sư, ai ai cũng tu hành. Dẫu ai đó trong chúng ta không tha thiết làm bậc chân tu để ngộ Đạo, thì vẫn có thể làm một người bình thường, nhưng là người sống trọn vẹn kiếp nhân sinh. Còn những cây mai thì có rễ cắm sâu vào lòng đất, không bị gục ngã trước gió bão và chịu đựng được mọi thời tiết, kể cả khắc nghiệt nhưng vẫn sống bền bỉ theo năm tháng vươn mình ươm chồi nẩy lộc, người Việt Nam dù bất cứ ở đâu cũng gìn giữ đạo lý ân nghĩa và cội nguồn văn hóa tốt đẹp của tổ tiên và nhẫn nại chịu đựng can đảm trước mọi hoàn cảnh để xây dựng cuộc đời. Bởi vậy mà cây hoa mai vàng còn tượng trưng cho phẩm đức nhẫn nại và đức hy sinh cao cả, sự bền bỉ của con người nói chung, người Việt Nam nói riêng. Bên cạnh đó, mai còn là biểu tượng cho sự cao thượng, quyền quý.
Hình ảnh cây mai nở rộ trong ngày đầu xuân là bài học đạo lý đối với mọi người và mọi nhà. Cây mai dãi nắng dầm mưa trong lòng đất Việt cũng là hình ảnh tiêu biểu cho những phẩm chất tinh thần cao quý của người dân Việt trong quá trình đấu tranh và lao động xây dựng cuộc sống qua nhiều thế hệ. Cây mai vàng Việt Nam có địa vị trong thơ Thiền của thời đại Lý Trần, đây là một hình tượng cao quý ẩn dụ cho khả năng tiếp nhận sự chân lý của con người. Những đoá mai vàng nợ rộ trong tiết xuân còn cho thấy niềm vui, niềm hân hoan, hạnh phúc, tình yêu thương, tinh thần đoàn kết và gắn bó mọi người lại với nhau.
Từ khi tổ tiên lập nước và giữ nước, thành lập chế độ làng xã, đã chú trọng vấn đề giáo dục đạo đức. Mỗi tên của làng xã cho đến tên tỉnh thành mà tổ tiên đặt ra đều mang dấu tích lịch sử và luôn tâm nguyện cho con cháu đời sau sống an lành. Nhiều làng xã trên quê hương Việt Nam đều có ngôi chùa, ngôi chùa từ thời đầu tiên như là thay thế cho trường học ngày nay để dạy lễ giáo và cũng là nơi tin ngưỡng chung cho mọi người. Khắp ba miền Nam, Trung, Bắc ở Việt Nam, mỗi làng xã đều có nhà thờ họ, nhà thờ nhánh, đình làng và miếu xóm lập lên để tỏ lòng tri ân đối với ông bà tổ tiên cũng như những anh hùng hào kiệt có công với dân với nước. Hằng năm, con cháu trong làng quê đi làm ăn hay sinh sống khắp nơi, thường trở về làng quê thăm cha già mẹ yếu, thăm mồ mã ông bà, tu chỉnh gia phả, ôn lại lời dạy của các bậc tiền bối để tri ân và báo ân. Cây mai trong sân chùa ở làng quê Việt Nam được xem là hình ảnh quan trọng trong văn học Phật Giáo thiền thời đại Lý Trần. Trong tuệ giác của các bậc thánh nhân, hình ảnh cây mai sống trong sương mai nắng chiều, sống qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông mà nở hoa đó là năng lực sống nhiệm mầu. Nó xứng đáng là biểu tượng cho trạng thái thân tâm vô nhiễm trong cuộc đời này. Thiền sư Mãn Giác làm bài thơ “Cáo tật thị chúng” với hình ảnh cây mai vàng đã gửi gắm tinh thần siêu việt tiềm ẩn trong khả năng của con người. Đó là năng lực sống tự chủ và trí tuệ. Trí tuệ ấy là tầm nhìn tổng quát trong mọi hoàn cảnh thăng trầm của cuộc sống, vượt qua mọi ràng buộc ước lệ thời gian và không gian trong thế giới hiện tượng. Nội dung bài thơ như sau:
"Xuân đi trăm hoa rụng,
Xuân đến trăm hoa cười.
Việc đời qua trước mắt,
Già đến trên đầu rồi!
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Ngoài sân đêm trước một cành mai.”
Hai câu thơ đầu như nói chuyện về thời gian, cảnh vật và thời tiết vốn có trong đời. Hai câu thơ tiếp như lời tâm sự chân tình về sự việc đến đi liên quan trong cuộc đời ngắn ngủi của con người. Tất cả đó diễn ra trong sân khấu cuộc đời luôn biến đổi, mọi hiện tượng sự vật đang trong trạng thái: thành, trụ, hoại, không. Con người cũng nằm trong quy luật: Sanh, già, bệnh chết. Hạnh phúc sau cùng là sống với cái tâm chân thật không bị điên đảo trước mọi hiện tượng cám dỗ của cuộc đời. Cuộc sống quanh năm dù nghèo khổ hay giàu sang phú quý, khó khăn hay thuận lợi cũng quan niệm như cảnh huyễn mộng mà thôi.
Cái đạo lý siêu nhiên chứa đựng trong ý nghĩa hai câu sau: “Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết, Ngoài sân đêm trước một cành mai." Đừng tưởng rằng xuân tàn hoa rụng là hết, vẫn còn có cành mai vàng đang nở ngoài sân. Ngay trong hiện tượng đang sanh diệt còn có chân tâm không sanh diệt. Cành mai như là một thông điệp cảnh tỉnh mọi người đang sống trong trường đời thay đổi, hiện tượng sanh già bệnh chết là điều tất yếu trong kiếp nhân sinh. Bản tâm thanh tịnh vô nhiễm, cái chân lý tối hậu để thoát khỏi mọi khổ đau sanh tử.
Hoa mai vàng là lọại hoa tiêu biểu để thờ cúng và trang trí trong nhà vào dịp Tết, cũng như là trình bày bài học đạo lý uyên thâm cho đời. Cành mai ngày tết là hình ảnh ẩn dụ cho sức sống và trí tuệ của con người. Quán chiếu hình ảnh cành mai để thấy rõ nét văn hóa tốt đẹp của dân tộc để báo ân tổ tiên và quê hương xứ sở. Quán chiếu hình ảnh cây mai ngày tết để nhận thức ý nghĩa cuộc đời. Tất cả mọi hiện tượng thành tựu bởi tri thức sau cùng cũng bị đào thải bởi quy luật sanh diệt với thời gian, trở về với chân tâm không sanh không diệt để có được hạnh phúc vĩnh hằng.
Thực ra, cuộc đời vẫn tiếp diễn theo qui luật thiên nhiên, mọi người vẫn tiếp tục cuộc sống, cây cỏ vẫn tốt tươi trở lại sau mùa đông băng giá: xuân qua, hạ đến, thu sang, đông tàn! Lời thơ uyên áo, thiền vị, ý nghĩa tuyệt vời! Nhứt chi mai là niềm hi vọng, là cái tốt trên đời không thể mất, là sự tồn tại của các giá trị siêu việt. Người tục hiểu khác người tu, nhưng cả hai đều thấy có cái trường tồn bất diệt chi phối cõi đời này.
Ngoài giá trị thi ca tuyệt tác, bài thơ sáu dòng trên nói lên sở ngộ của một bậc thiền sư. Giữa dòng đời mọi vật đều vô thường, biến đổi: đến đi, nở tàn, ngày đêm, trước sau, vẫn có mặt cái thực tại như thật, cái thực tại luôn hiện hữu cùng với con người, mà con người thường không thấy, hay bị che khuất bởi các tướng sinh diệt. Con người cũng không tránh khỏi các qui luật này.
Trong cuộc sống, khi tiếp xúc với cảnh trần, tâm con người sanh ra không biết bao nhiêu phiền não khổ đau. Muốn dẹp bỏ các tâm trạng bất an này, con người cần áp dụng tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả. Khi các vọng tâm phiền não hoàn toàn dứt sạch, con người đạt được cảnh giới vô tâm.
Mùa xuân có đến ắt có đi theo qui luật tuần hoàn của thiên nhiên, không vĩnh viễn tồn tại, cũng không vĩnh viễn mất đi, có đi ắt có đến theo vòng sanh tử luân hồi. Khi tất cả những thứ đó rơi rụng hết, ví như xuân tàn hoa lạc tận, thì lúc đó bản tâm thanh tịnh, hay chân tâm, hiển lộ. Chân tâm bình đẳng là con người chân thật. Khi đó, con người chân thật sống trong an nhiên tự tại của niết bàn. Nếu như phiền não (tham, sân, si) chưa dứt sạch (hoa tàn chưa rụng hết), thì làm sao thấy được chân tâm, làm sao thấy được nhứt chi mai? Ví như mặt trời luôn sáng tỏ, nhưng vì bị mây đen (phiền não) che khuất, ánh sáng trí tuệ không tỏ. Nếu người nào hiểu được rõ ràng thì phước biết bao. Người nào bớt được phiền não khổ đau, thì người xung quanh cũng đỡ khổ biết bao.
Cho nên kinh sách có câu: vô tâm tức niết bàn, chính là nghĩa đó vậy. Cũng như Thiền sư Mãn Giác đã nói: hoa rụng hết, tức là các phiền não rụng hết. Khi ấy, tâm thanh tịnh hiện tiền, cũng như một nhánh mai hiện diện nơi sân trước hồi đêm qua. Sân trước, sân sau, đêm qua, đêm nay, ngụ ý chỉ sự đối đãi, sự tương đối, trên đời này: có đúng có sai, có phải có quấy, có sáng có tối, có trước có sau, có chánh có tà, có đen có trắng, có ngày có đêm... Thông thường, thời gian trôi qua, con người lẫn vạn vật, tất cả đều tàn phai hoại diệt. Nhưng trong khi cái vật chất hữu tướng bị hoại diệt đó, còn có một cái bất diệt, thời gian không hủy hoại được. Cũng như ngay trong thân năm uẩn sanh diệt vô thường của chúng ta, có cái thường hằng bất diệt, biểu trưng bằng một nhánh mai, tồn tại dù xuân đã qua.
Dù sống trong cảnh đời đối đãi nhị biên như vậy, nhưng nếu con người biết pháp môn tu tập, con người vẫn có thể giác ngộ được cái chân thật bất nhị, không còn thấy có hai, dù không gian, thời gian nào, dù người hay vật, sắc hay không, tượng trưng là: nhứt chi mai.
Với cuộc sống Chân – Thiện – Mỹ, điều đó khẳng định được giá trị thiết thực của bài thơ mãi mãi bất diệt, trong bước đi tìm cầu chân lý giải thoát.
(Khai bút sau giờ giao thừa năm Mậu Tuất vào lúc 2g30 sáng và kết thúc vào lúc 22g ngày mùng 3 tết năm Mậu Tuất.)
Tác giả: Tỳ Kheo Thích Thiện Hạnh (Đức Hạnh)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét